Bão Đồng

Chương 3

Cao năm

05/05/2014

Từ việc khoán tuốt lúa, rồi khoán gặt, tôi nảy ra ý định giao cho mỗi nhà vài sào ruộng để họ trông nom, có thể lợi hơn để cả đội làm. Khi đưa ra chi bộ bàn, nhiều người bảo làm thế là hay đấy. Mỗi nhà nhận vài sào, bà con có thể tranh thủ làm lụng, trông nom, tốt hơn là để đội làm hết mọi việc, nhưng lại lắm vãi không ai đóng cửa chùa như lâu nay. Ông Lạc đã một lần bị kỷ luật, giờ cứ như gà phải cáo, hơi tý là giật mình, nói với tôi đầy giọng thông cảm: “Chỉ ngại là ngại trên xã, trên huyện mà biết, thì lần này chú khó tránh khỏi kỷ luật”. Chị Kha, đội phó bảo: “Làm theo cách của đồng chí Điền là khoán cho hộ xã viên rồi. Mà khoán hộ là dứt khoát trên không cho làm đâu. Hồi còn hợp tác nhỏ, Phương Trà ta cũng có năm khoán như thế. Sau ông Giá, bí thư huyện uỷ, chả về bắt cả chi bộ họp kiểm điểm mấy ngày, rồi ta bị cảnh cáo toàn huyện, các đồng chí còn nhớ không? Khoán như vậy thì thể nào lúa cũng tốt, thóc cũng nhiều. Nhưng nếu trên mà biết thì lần này không riêng đồng chí Điền, mà có khi cả chi uỷ, chi bộ đều bị kỷ luật, chứ không khỏi!”. Chung quy ai cũng sợ cấp trên biết, thì việc làm dù có lợi cho dân đến mấy cũng không khỏi bị kỷ luật. Bác Thản, một người vào Đảng từ những năm 1950, từng bị giặc Pháp bắt dìm vào bể, uống no nước đến vọt cả cứt đái ra bể, nhưng vẫn không khai hầm bí mật giấu Việt Minh ở chỗ nào. Bác Thản ngẩng khuôn mặt vuông chữ điền, nước da đen sạm với nhiều vết nhăn, nhìn tôi đầy cảm thông, chia sẻ: “Mới chỉ khoán gặt thôi mà ông Thuật đã gọi chú lên “cảnh cáo nhẹ”. Thế mà giờ lại định giao ruộng khoán cho các hộ nữa, thì khó mà giữ được cái đầu. Thôi, được ăn cả, ngã thiệt thân, lâu nay người ta làm thế nào, giờ mình cứ thế làm, cho yên chuyện, chú ạ!”. Tôi nói trước cuộc họp chi bộ tối hôm ấy: “Cứ như khoán việc tuốt lúa, gặt lúa vừa rồi, nếu ta giao ruộng cho xã viên làm, nhiều ít bao nhiêu tuỳ khả năng từng gia đình, thì nhất định ruộng nương, lúa má sẽ khá hơn là cứ để làm tập thể như lâu nay. Còn nếu làm mà xã, rồi huyện biết, thì cá nhân tôi xin chịu kỷ luật. Chi bộ coi như chưa bàn việc này”. Tôi tưởng trước thái độ cứng rắn của tôi, chi bộ có thể cho qua. Nhưng thật không ngờ, tôi vừa nói xong thì người có ý kiến phản bác đầu tiên lại là thầy tôi. Gần như cả buổi họp ông cụ không nói gì, chỉ ngồi hút thuốc lào vặt. Mấy lần tôi nghe tiếng ông Lạc, rồi bác Thản, chị Luân giục: “Bác Mải có ý kiến đi chứ. Sao cứ ngồi ngay cán tàn thế nhỉ?”, nhưng cụ vẫn không động tĩnh gì. Vậy mà bây giờ. Tôi quay nhìn thầy tôi nét mặt đăm chiêu, tuồng như nghĩ ngợi mung lung lắm. Giây lát, ông cụ cất giọng nhỏ nhẹ, ngập ngừng, nửa như nói với riêng tôi, nửa như nói với cả chi bộ: “Không chỉ kỷ luật mình bí thư đâu, cả chi bộ sẽ bị kỷ luật đấy. Danh dự của tập thể chi bộ, chứ không chỉ một cá nhân. Nên chưa thể thông qua hôm nay được. Để lại thăm dò, nghe ngóng bà con xem thế nào, rồi chi bộ quyết định cũng chưa muộn”. Thầy tôi là người cao tuổi đời, nhiều tuổi đảng, không chỉ trong chi bộ này, mà cả trong đảng bộ xã. Tiếng nói của ông cụ thường được nhiều đảng viên kính nể, nghe theo. Quả nhiên, ông cụ nói xong thì bác Thản, chú Ban, chị Luân đều đồng ý “chưa nên quyết định vội”. Gần hai giờ đêm cuộc họp chi bộ mới giải tán, mà không đi đến một sự nhất trí nào. Tôi buồn bực giận lây cả thầy tôi. Ông cụ sợ mất danh dự của chi bộ, sợ tôi bị kỷ luật, hay còn sợ những gì gì nữa. Vậy hà cớ gì mấy hôm trước tôi lân la hỏi, ông cụ lại có vẻ dứt khoát: “Làm lợi cho hợp tác và xã viên, chứ cho riêng mình đâu mà sợ!”.

Đêm ấy tôi không về nhà, đi với anh Thuỵ về nhà anh ấy ngủ. Thực ra từ bấy giờ cho đến sáng, tôi với anh ấy cũng chẳng chợp mắt được lúc nào. Anh thủ thỉ bảo tôi: “Cứ cho làm đi. Xã biết, tao che cho”. Anh Thuỵ với ông Biền, bí thư đảng uỷ xã bấy giờ, là con bá con dì, có cất lời lên xin cho thằng em họ là tôi, hẳn cũng không đến nỗi như người dưng nước lã. Còn tôi, cả đời chưa một lần nhờ cậy ai, dù chỉ là một lời nói, nhưng lúc ấy cũng phải mặc cả với anh: “Nếu xảy ra chuyện gì, anh bảo vệ tôi đến cùng nhá!”. Anh ngoặc tay: “Tao bảo vệ đến cùng. Nhưng phải làm thật, chứ không đánh trống bỏ dùi đấy nhá!”. Tôi với anh còn nói chuyện với nhau đến rạng sáng. Chị Thuỵ dậy lịch kịch nấu cơm, khi cầm cái nồi, cắp rá gạo từ trong buồng ra, tôi lướt nhìn cái rá chị cắp ở nách chỉ thấy đám gạo dính đáy rá. Nhà còn bà mẹ đẻ ra anh Thuỵ, lại hai vợ chồng và năm đứa con, là tám miệng ăn, chỉ nấu ngần kia gạo sao đủ mỗi người vực bát. Thế mà khi tôi ra về, qua cửa bếp ngó vào chào: “Chị nấu cơm, em về đây!”, vợ anh Thuỵ vội đè cái que dẽ lên chỗ rạ đang cháy trong bếp, đứng dậy, rảo bước ra cửa: “ơ, chị nấu cả cơm chú rồi đây. Ở lại ăn cơm, anh em có bàn gì với nhau thì bàn cho xong đi”. Chắc cả đêm chị cũng không ngủ, câu chuyện giữa tôi với anh hồi đêm đã lọt hết vào tai chị rồi. Đã thế, hẳn chị cũng biết tôi với anh ngoặc tay nhau là coi như xong, còn bàn gì nữa. “Thôi em về, chị nhé”.

Khi tôi mới về đến rặng tre đầu ngõ đã nghe tiếng thầy tôi ho khùng khục. Nhìn vào sân một vệt sáng đèn dầu từ trong nhà hắt ra. Thầy tôi ngồi bó gối trên ghế, mặt sây ra ngoài sân như ngẫm ngợi, như ngóng đợi cái gì khó đoán định. Ông cụ thường không hay dậy sớm. Đã dậy, thể nào cũng đi rẻo ra vồng ngắm giàn trầu, cây cau, qua chuồng lợn, chuồng gà, vào cái ao trước nhà nhìn cá nổi mặt nước, hay chỉ sủi tăm, đớp bóng mà lừa lựa thời tiết cái ngày hôm ấy nó ra làm sao. Không khi nào thầy tôi ngủ dậy lại ngồi lì một chỗ thế kia. Tôi bước lên thềm, vừa cất tiếng:

“Con chào thầy ạ!”, thì ông cụ hỏi ngay: “Anh ngủ đâu làm tôi đợi cửa cả đêm?”. Ở quê bây giờ không như ngày xưa, anh ạ. Đêm hôm đi ngủ cửa rả không che chắn cẩn thận, đến bát gạo cũng không còn, chứ đừng nói xe pháo, áo quần. Chồng chị Vần làm ở sở thuỷ lợi tỉnh, tối thứ bảy về muộn, vợ con đi xem nhờ ti vi bên hàng xóm. Nhà trên nhà dưới cửa đóng then cài, đành dựng tạm chiếc xe đạp ngoài sân, chạy sang bảo vợ con đưa chìa khoá về mở cửa. Nhoáng một cái, về đến nhà chí còn những chỗ. Vợ chồng, con cái, anh em đèn đóm đổ xô đi tìm, sục hết bờ bụi, lội cả xuống ao chuôm mò như mò ốc cũng chẳng thấy xe pháo đâu. Mọi lần đi đâu về muộn hoặc không ngủ nhà, tôi thường dặn người nhà trước, để biết chừng cửa rả. Vậy mà khi ở chỗ họp chi bộ ra, tôi không sao nhớ nổi cái việc cỏn con ấy, làm thầy tôi đợi cửa cả đêm, nên chắc giận. Tôi nói cho qua chuyện: “Con ra ngoài lò gạch. Hôm nay họ đốt lò”. Giọng ông cụ tỉnh khô: “Đốt lò thì bấn gì đến anh”. Thật cả đời được một lần nói dối không xuôi. Đúng là đốt lò gạch thì bận gì đến tôi, một người chưa từng cầm cái khuôn đóng gạch bao giờ, đừng nói đến đốt lò; hơn nữa, hợp tác có hẳn một đội mấy chục người chuyên làm gạch, có khi nào phải điều lao động của đội khác ra làm đâu. Tôi lúng túng rút ngăn kéo cất quyển sổ công tác, nghe thầy tôi nói:

- Anh về nhà anh Thuỵ, hai người bàn nhau nhất định khoán ruộng chứ gì?

Biết không thể chối quanh, tôi đành đánh bài ngửa:

- Vâng ạ!

- Anh nghĩ thế nào lại cho khoán ruộng?

- Con chỉ nghĩ cứ để mọi việc đồng áng đều do tập thể làm, thì dẫu ban đội có ba đầu sáu tay mười hai con mắt cũng không thể khắp hết được. Bàn tay có ngón dài ngón ngắn, huống chi hàng trăm con người thể nào chả có người lười người chăm, người khoẻ người yếu. Tránh sao khỏi suy bì, tỵ nạnh nhau. Thế mà lại cùng làm với nhau, cùng hưởng như nhau một mức công sá, nhất định không sao tránh khỏi người lười dựa người chăm, người khoẻ tỵ nạnh người yếu. Đã dựa dẫm nhau thì công việc không thể làm nhanh, làm tốt được. Đã tỵ nạnh nhau thì không thê đoàn kết, tương thân tương ái với nhau được. Bà con xóm láng ra ngõ chạm nhau, nhưng bằng mặt mà không bằng lòng, thì đừng nói đến chung sống hoà thuận, trên dưới đồng tâm, hiệp lực. Có chăng chỉ là giả tạo, nguỵ biện, còn thực chất sức mạnh nội tại thì không. Thế nên, người thì đông mà công việc cứ ì ra đấy. Như vụ gặt vừa rồi, nếu không khoán cho bà con để người ta mẹ nào con ấy lo đưa lúa về nhà, cứ đằng thẳng như mọi vụ kéo nhau ra đồng dăng hàng ra sặt, thì liệu có khỏi bị mưa bão ngập úng như bên Phương Trì, Phương La!

Thầy tôi không hiểu có nghe ra, nhưng ông cụ buông chân xuống ghế, rờ rờ đôi dép đang nằm mỗi nơi một chiếc, mà lại hướng cặp mắt hoe hoe đỏ về tôi, hỏi:

- Anh không quên là chỉ vì cái chuyện khoán gặt ấy mà cả đội bị phạt, còn anh thì tý nữa bị kỷ luật đấy à!

- Con không quên. Nhưng dù bị phạt hay kỷ luật, mà bà con được no bụng, con cũng sẵn sàng chịu kỷ luật.

Trong khi tôi nói câu ấy, không hiểu sao tôi lại nhìn thẳng vào thầy tôi. Trên khuôn mặt vuông vức với những đường nhăn hằn sâu trên trán, trông thầy tôi đang từ đăm chiêu nghĩ ngợi, chuyển dần sang tươi tỉnh, đôi môi dày, khô khốc, mấp máy như sắp nở nụ cười. Rồi bỗng ông cụ khà khà cười lên thành tiếng, nghe vừa sảng khoái, lại vừa lạ lùng lắm. Tôi nghe tiếng cười ấy, bỗng lại thấy chột dạ, không hiểu có phải ông cụ đã nghe ra, hay lại cho tôi là cái thằng phổi bò, rởm đời, ngang ngạch khó bảo, bất chấp mọi sự, cũng chưa biết chừng. Tính nết người già nhiều khi thật khó hiểu. Việc ở đây, có khi lại nói mãi đẩu đâu, thâm thuý đến cay nghiệt. Ấy là tôi chột dạ nghĩ vậy, chứ ông cụ đã lên tiếng rồi kia:

- Nếu thế thì được. Nhưng tôi chỉ sợ đến khi trên người ta biết, anh lại như ông Lạc năm đã lâu, chối đây đẩy, đổ vấy cho tập thể: “Việc này là do chi bộ quyết định”, thì còn gì là uy tín của chi bộ trước bàn dân thiên hạ nữa!

Té ra, ông cụ lo bảo vệ uy tín của chi bộ. Kể cũng phải. Nhưng chưa phải. Vì uy tín của chi bộ đâu chỉ là sự bóng bảy không có tỳ vết, mà thực chất phải là mọi cư dân ở trong phạm vi tổ chức đảng nơi ấy đều tự giác làm việc hết mình, để mang lại lợi ích cho mình và cộng đồng làng xã, làm sao cho dân có bát ăn bát để, tiền tiêu dư dật, nghĩa vụ với tập thể và nhà nước làm sòng phẳng, không dây dưa năm này qua năm khác. Chứ còn như cứ mùa màng thất bát, dân chưa hết mùa đã hết thóc, cũng khó mà nói chi bộ có uy tín hay không trong lòng dân. Nhưng cũng không nên trách ông cụ. Người già thường rất hiểu sự đời, những cư xử với người này người khác trong xóm ngoài làng thật đúng mực; nhưng thường lại hiểu giản đơn và phiến diện những vấn đề chính trị, xã hội và mối quan hệ của nó trong cuộc sống cộng đồng. Không riêng ông cụ nhà tôi, nhiều cán bộ, đảng viên nông thôn hiện nay trình độ hiểu biết về chính trị, kinh tế, kỹ thuật còn nhiều lỗ hổng lắm. Đến chính sách, pháp luật cũng còn lơ mơ, chỉ khi nào đụng đến sát sườn mới giẫy lên như đỉa phải vôi, nữa là việc mãi đâu đâu. Hiểu ông cụ như vậy, tôi không muốn nói gì dài dòng, mà chỉ bảo:

- Thầy yên tâm đi. Con chỉ làm lợi cho tập thể và xã viên, chứ không làm mất uy tín của chi bộ đâu mà thầy lo!

Thầy tôi hỏi vặn:

- Nếu cấp trên biết thì anh ăn nói thế nào?

- Con sẽ thành thật báo cáo hết mọi việc.

Ông cụ bỗng nổi khùng, mắng té tát:

- Rõ là đồ hữu dũng vô mưu. Anh không biết cách làm ấy là sai nguyên tắc quản lý hợp tác xã, đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa hay sao. Đã cố ý làm sai, còn đòi thành thật…báo cáo! Tôi thật không ngờ anh đã nghĩ được như vậy, mà vẫn còn nông nổi đến thế!

Quả này đúng là chịu bố già. Tôi chỉ còn biết ngồi ngây ra, chưa nghĩ được câu gì khả dĩ. Thầy tôi ngồi chân vẫn thõng xuống đất, nhưng lại bắt chéo chữ ngũ, dáng ngồi thư thái, tĩnh tại. Mẹ tôi như mỗi buổi sớm, đã nấu xong ấm nước chè xanh từ dưới bếp xách lên, chuyên sang cái ấm tích để trong dành mà dẫu mùa nóng hay mùa rét, thầy tôi bao giờ cũng chỉ uống một loại nước chè xanh hãm vào tích ủ trong dành thế thôi. Dường như thầy tồi có ý chờ mẹ tôi chuyên xong nước vào tích, trở xuống nhà bếp nấu tiếp bữa cơm sáng, mới nói nhỏ nhẹ chỉ hai bố con nghe:

- Muốn làm, chỉ có cách làm chui hoạ may mới thoát, anh ạ!

Tôi nói ngay, cũng là muốn để xem ông cụ còn cao kiến gì nữa:

- Chuyện trong nhà giữ còn khó, chuyện ngoài đổng giữa bàn dân thiên hạ giữ sao nổi, hả thầy?

Ông cụ nói như đã suy nghĩ lung lắm:

- Thế mới phải có sự nhất trí cao trong chi bộ, rồi ra ngoài dân. Đã làm chui là phải tuyệt đối bí mật. Như ngày xưa du kích đánh bốt chùa Mụa, rõ đến lúc vào tới trong nhà thằng đồn trưởng, thu hết súng, lay đầu gọi dậy, nó vẫn còn ôm con vợ ngỗn nghện, miệng lảm nhảm mắng lính làm mất giấc ngủ. Phải nói rõ với mọi người trong đội này, muốn no bụng phải lo giữ lấy cái mồm. Ai hở ra, người ấy không được giao mộng khoán, thậm chí cũng không điều đi làm việc gì ăn công điểm nữa. Phải ngặt nghèo với nhau thế, may mới làm lọt được vài vụ chăng. Mà cũng chỉ cần vài vụ cho bớt túng bấn quá thôi, rồi ra lại tính, lộ thì thôi, không lộ cứ làm. Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, chứ cách thì thiếu gì cách.

Thầy tôi nói đến đấy chợt dừng lời, ngó vào trong nhà, lại ngó ra tận ngoài bờ ao, đầu ngõ. Ngỡ ông có ý tìm bà, tôi nhanh nhảu: “Mẹ con vừa rẻo ra đằng sau, có khi đi mở chuồng gà”. Nhưng lại nghe ông cụ bảo: “Mặc bà ấy”. Thế có nghĩa ông không có ý tìm bà, hẳn là thầy tôi cảnh giác, không muốn câu chuyện giữa hai cha con lọt đến tai người khác. Ông cụ cẩn thận thế kể cũng phải, bức vách có tai, biết đâu lọt ra ngoài, một người kín, hai người đã là trống, phải thành trái, trái thành phải, chẳng biết thế nào mà lường. Giây lát, ông cụ quay lại nhìn thẳng vào tôi, nói như chính ông mới là người đưa ra quyết định hệ trọng này, chứ không phải tôi:

- Có khi toàn thể đảng viên trong chi bộ phải cùng nhau ăn thể, như hồi đánh Pháp chúng tao ăn thề giặc bắt không khai ấy, mới được!

Tôi bật cười, mà không dám cười to:

- Thầy lạc hậu thế. Ngày xưa đảng viên nhiều người không biết chữ mới phải ăn thề. Chứ ngày nay, cần thì mỗi người tự viết tờ cam đoan, còn sao phải thề!

Thầy tôi bảo:

- Thế là anh chẳng hiểu gì về tục ăn thề rồi. Để tôi nói cho mà hay.

Không phải ở đâu cũng có tục ăn thề. Từ xa xưa, cả tổng Nhuế chỉ có làng Phương Trà là có tục này thôi. Tục bắt nguồn từ cái đêm mơ của một vị tướng nhà Lý, trên đường mang quân ra trấn cửa Đại Bàng. Tướng quân dùng chân trên bãi đất đầu làng, nơi sau này được xây lên thành đền. Qua mấy ngày, dân quanh vùng nơi thì mang thóc gạo sắn khoai, nơi mang trâu bò rượu muối, nhưng nhiều nhất là người. Nơi nào cũng đưa đến những người đàn ông khoẻ như vâm, nhanh như sóc, da săn thịt bắp, chỉ nhìn họ đã thấy thắng rồi, chả cần chờ đến lúc xung trận. Sau những ngày quân lính đồn trú ở làng, một đêm giữa tháng hai mưa xuân lất phất, Tướng quân đang nồng giấc, bỗng như thấy từ trên trời từng đoàn người gươm dáo đeo lưng, gậy gộc cầm tay, nườm nượp bay xuống đứng dăng thành hàng quanh Tướng quân. Không chỉ có người rầm rập dáo gươm, bừng bừng khí thế, mà còn có cả những chiến thuyền chở quân lính, khí giới, lương thảo tới tấp lướt về như lá tre, sẵn sàng tiếp ứng cho đạo quân dũng mãnh của Tướng quân. Giữa lúc giấc mơ đang nồng, bỗng Tướng quân nghe tiếng gà trống cất lên ba tiếng gáy như reo vui, chào đón, lay động tâm thức lạ lùng. Cùng lúc ấy, Tướng quân chợt nhớ tới tuổi mình cầm tinh Con Gà, và năm ấy cũng là một năm Gà. Tiếng gà gáy làm Tướng quân bừng tỉnh giấc mơ. Ngài bỗng cảm thấy như có điềm báo Trời Phù cho quân tướng của mình trước khi xung trận. Sáng ra, Tướng quân bèn lệnh cho ba quân vào trong làng, ra ngoài chợ có ai bán gà dò, gà trống đều mua hết về tế thần. Sau khi tế, nhất thiết tiết gà phải pha với rượu chia đều cho ba quân mỗi người uống một hớp để tỏ sự đồng lòng, đồng sức, đồng tâm trước thổ thần thổ địa. Sau lễ ăn thề, ba quân xuất kích nhằm hướng cửa Đại Bàng dăng thế trận. Lần ấy, Vị tướng nhà Lý thắng lớn trên cửa Đại Bàng. Tướng quân lại đưa binh sĩ trở về hội quân trên khu đất đầu làng Phương Trà, mở hội khao quân, trọng thưởng mọi người, kể cả dân lành có công cơm nước cho ba quân những ngày đồn trú ở làng. Từ ấy, uống rượu ăn thề trở thành tục lệ đời này truyền đời khác của người làng Phương Trà, mỗi khi bước vào làm một công việc gì lớn lao, ý nghĩa, cần sự đồng tâm, hiệp lực của tất cả mọi người. Tục lệ tốt đẹp là thế, tồn tại đã từ bao nhiêu năm, kể cả những năm kháng chiến chống Pháp đảng viên, du kích cũng vẫn tổ chức ăn thề mỗi khi địch o ép gắt gao, thế mà chẳng hiểu sao hồi cải cách ruộng đất lại tự nhiên cấm ngặt. Thế nên từ ấy, lớp các anh mới hiểu tục ăn thề khác đi, chứ đâu phải ăn thề là một việc làm mê tín dị đoan mà bảo “lạc hậu!”.

Tôi sinh ra ở làng, lớn lên cũng từ nhà tranh, mái rạ, luỹ tre làng. Tuy có đi xa, vào tận Quảng Nam, Đà Nẵng, nhưng tất cả mới ngót chục năm, từ giữa năm sáu bảy đến cuối bảy nhăm xuất ngũ về địa phương, lại bám chóp cày, nhìn đít trâu như bất cứ người đàn ông nào ở làng. Vậy mà giờ nghe thầy tôi nói mới biết làng mình còn có một tục lệ đẹp đến thế, sao bấy nhiêu năm lại bị lãng quên, hay người ta cố tình bỏ quên(ị?).

Tối hôm ấy, để mọi việc diễn ra suôn sẻ, chuẩn bị chu đáo, nhưng không ồn ào, tôi hội ý chi uỷ mời toàn thể đảng viên trong chi bộ đến họp ở nhà tôi. Chuyện khoán chui hôm trước chi bộ bàn dở, hôm sau đã loang ra cả xóm trong, ngõ ngoài, đầu làng chí cuối đều biết. Thế nên, cuộc họp chi bộ tối hôm ấy, bất chấp cả quy định “bí mật”, “nội bộ”, không biết từ cửa miệng người nào, đảng viên hay xã viên nói ra, mà bà con kéo đến nhà tôi còn sớm hơn cả mấy đảng viên con thơ cái quấn. Nhung cũng lạ, không biết họ dặn dò nhau những gì mà tôi, anh Thuỵ, chị Luân, rồi cả thầy tôi nữa, nói thế nào bà con cũng không vào trong nhà ngồi, chỉ một mực: “Chúng tôi ngồi ngoài này cũng nghe rõ”. Cái sân nhà tôi rộng thế mà tối ấy bà con ngồi gần kín, đủ biết những người xã viên ấy khao khát được cấy trồng trên mảnh đất mình được quyền sử dụng đến mức nào. Không riêng tôi nhìn bà con đến nghe dự thính cuộc họp chi bộ lòng thấy xốn xang vô cùng, mà ngay bác Lạc, một người có lúc từng coi những người kia như rơm như rác, tự mình cho thanh lý tài sản, bán cả ao làng không cần hỏi ai, giờ đang tự tay buộc chiếc đèn soi cá vừa chạy về nhà lấy đến, thấy tôi đi qua liền gọi giật lại bảo: “Bà con bức xúc lắm rồi. Ta họp quyết định ngay đi, anh ạ!”. Lúc sắp vào họp, anh Túc như có ý đại diện cho những quần chúng có mặt ở đấy, cất lời: “Bà con chúng tôi đến thế này cũng là không phải. Nhưng vì biết chi bộ họp bàn khoán ruộng, nên chúng tôi chỉ xin đến nghe nhờ thôi ạ”. Thực ra, trước ngày họp, chi uỷ chúng tôi đã phân công nhau đến từng nhà thăm dò, phần đông bà con đều muốn khoán. Điều ấy tất cả hai mươi bảy đảng viên trong chi bộ Phương Trà đều biết. Họ cũng biết thầy tôi, người có tiếng nói nhiều khi rất quan trọng trong cuộc họp, cũng tán thành cách làm ấy rồi, nên khi vấn đề được đưa ra thảo luận thì chi bộ nhất trí rất nhanh. Thực ra vấn đề đã chín muồi quá rồi, chỉ có điều đã thành chủ trương hay chưa thôi. Biên bản cuộc họp chi bộ quyết định giao khoán một số diện tích cấy lúa cho người lao động được thông qua, với trăm phần trăm đảng viên có mặt tán thành. Tôi vừa nói trăm phần trăm đảng viên có mặt, là vì chi bộ có hai mươi bảy đảng viên, nhưng tối ấy còn ba đồng chí không đến họp, cũng không thấy báo cáo lý do vắng mặt. Sau này, khi cấp trên biết và triệu cả chi bộ lên đảng uỷ họp kiểm điểm suốt hai ngày, mới lòi ra chính ba đồng chí vắng mặt họp chi bộ hôm ấy có ý kiến trái ngược, nhưng không hiểu sao không thẳng thắn bày tỏ chính kiến của mình trước chi bộ, mà lại lánh mặt, rồi ngầm báo cáo lên cấp trên. Còn nội dung quyết định của chi bộ mà tôi vừa nói, có một điểm khi ấy tôi, chị Luân và bác Lạc phải bàn bạc mãi, rồi mới ghi vào: “giao khoán một số diện tích cấy lúa cho người lao động”. Cũng đã lường trước, nếu cấp trên biết thì với cách lập luận chúng tôi chỉ khoán một số diện tích cấy lúa có tính thí điểm, và cũng chỉ giao cho người lao động thôi, chứ có mang toàn bộ ruộng đất giao cho xã viên hoặc hộ xã viên đâu, mà sợ đi chệch đường lối hợp tác hoá nông nghiệp. Quá thật, sau này với cái “lý sự cùn” ấy, nói như ông Trường phê phán tôi trong cuộc họp kiểm điểm ở huyện uy, cũng được trên giảm nhẹ cho tý khuyết điểm; chứ không, bây giờ tôi khó mà nói chắc còn đứng trong hàng ngũ của Đảng nữa hay không.

Khi biên bản họp chi bộ thông qua xong, tôi thấy thầy tôi nháy bác Lạc, rồi cả hai đứng dậy ra ngoài. Chỉ giây lát, tôi bỗng giật mình, ngoài chuồng gà có tiếng con gà trống nhà tôi đập cánh kêu không ra tiếng. Bác Lạc cầm con gà vào, còn thầy tôi đi sau tay cầm dao, tay cầm bát. Ông cụ vừa đi vào vừa khà khà cười, nói với những người đang ngồi lặng lẽ ngoài sân: “Bà con thông cảm nhá. Đây cũng là vì quyền lợi của bà con ta cả. Đảng viên chúng tôi xin cùng nhau ăn thề không để việc này lọt ra đến ngoài, không nói cho ai biết, ngoài dân làng ta. Tục cùng nhau ăn thề, mỗi khi có việc hệ trọng, từ lâu đã tượng trưng cho sự đồng tâm, đồng sức, đồng lòng của dân làng ta rồi. Giờ chúng ta xin quỷ thần chứng giám phù hộ độ trì cho đội Phương Trà giao ruộng khoán cho dân thông dòng bén giọt, mưa thuận gió hoà. Mọi người có quyết tâm không!”. Ông cụ vừa dứt lời, lập tức không ai bảo ai, trong nhà ngoài sân mọi người đồng loạt giơ cao tay, miệng hô vang “Quyết tâm! Quyết tâm! Quyết tâm!”. Tôi còn chưa kịp trấn tĩnh trước sự ủng hộ nhiệt thành của quần chúng, đã thấy bác Lạc cứa một đường dao sắc ngọt vào cổ con gà. Một dòng tiết đỏ thắm chảy xuống chiếc bát tô chị Luân đang hấng. Giây phút thiêng liêng. Mọi người im lặng. Bao nhiêu con mắt đều dồn hết vào chỗ mấy người cắt tiết gà. Nhiều người ngồi ngoài sân đã đứng cả dậy, nhìn cho rõ. Người ở xa bước nhanh lại gần. Người ở ngoài lay lay lưng áo, ra ý bảo người đằng trước cúi bớt đầu xuống. Ai cũng muốn được tận mắt nhìn thấy những dòng nước đỏ chảy vào bát rượu trắng đang mỗi lúc một hồng tươi lên. Giây phút linh thiêng, không ai nỡ cất lên một lời nói, hay câu hỏi nào, dù khá nhiều người ở đây chưa biết cách pha tiết gà vào rượu uống là như thế nào. Nhưng vẫn im phăng phắc. Không một câu hỏi. Không một tiếng nói. Chí có những con mắt mong chờ, hy vọng, và cả tò mò, chăm chăm nhìn về phía mấy người cắt tiết gà. Khi con gà trống màu huyết dụ của nhà tôi đã mềm nhũn trên tay bác Lạc, thầy tôi cầm bát tiết trong tay chị Luân, chuyên sang mấy cái bát con để bên cạnh. Rồi ông cụ giơ lên một bát, tư thế đĩnh đạc như người cầm trống cái ngày hội làng: “Nào, xin mời! Anh em đảng viên: Nói lời xin giữ lấy lời! Tôi xin uống trước”. Thầy tôi uống xong, đưa cái bát cho bác Lạc. Bác Lạc dõng dạc nhắc lại lời thầy tôi như một lời thề: “Nói lời xin giữ lấy lời!”. Đoạn, bác Lạc lại chuyền cái bát qua tay chị Luân. Chị Luân cũng hai tay nâng bát tiết lên ngang mặt, chậm rãi: “Nói lời xin giữ lấy lời!”, rồi kề miệng bát vào môi uống ực một ngụm, trong tiếng vỗ tay vang dậy của mọi người, trước cử chỉ rất quân tử ấy của người đàn bà goá, vợ liệt sĩ, đang phải gánh một nách hai đứa con nhỏ với bà mẹ chồng ngoài bảy mươi giữ nàng dâu như giữ bảo bối trong nhà, hễ thấy nàng dâu chân trong cổng, chân ngoài cổng là vội hỏi “Mẹ Hoan đi đâu đấy?”. Cứ làm như lúc nào cũng có thằng đàn ông nấp ở đâu đó ngoài kia, chỉ chờ con dâu bà ra là cấp chạy như đại bàng cắp công chúa không bằng. Chị Luân kề miệng bát tiết vào môi uống một ngụm xong, liền chuyền tay sang người bên cạnh. Bát rượu tiết cứ thế quay vòng, hết đồng chí này đến đồng chí khác. Đến tôi. Thật lần đầu trong đời tôi uống một ngụm rượu tiết gà còn nóng hôi hổi.

Khi bưng bát tiết lên, tôi bỗng nhớ đến cái lần đi đánh tàu chiến Mỹ-nguỵ ở cảng Đà Nẵng. Cũng một cuộc xin thề giống như đêm nay. Chỉ khác, một đằng là giữa cái sống và cái chết, còn một đằng là giữa vẹn tròn và kỷ luật. Nhưng cũng vào một đêm tối trời như đêm nay. Tôi và anh Vận, quê bên Thuỷ Đường, cũng người tỉnh ta cả. Hai anh em nhận lệnh mang bộc phá đi đánh tàu. Trước khi đi, chúng tôi được chỉ huy đơn vị gặp gỡ dặn dò kỹ lưỡng. Sau đó, đồng chí chính trị viên còn đưa cho mỗi người một tờ giấy xé trong sổ tay ra, bảo viết quyết tâm thư, không cần dài, cốt thê hiện rõ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Anh Vận ở nhà làm nghề đánh cá biển nên bơi rất giỏi, nhưng chữ nghĩa ít, lại viết rất xấu. Anh ngồi mãi chưa thấy viết được chữ nào, chỉ thấy cắn bút. Còn tôi, đã học xong lớp mười, cũng muốn thể hiện trình độ của mình nên không muốn viết giống những lá đơn trước, lại nhớ lời chính trị viên lúc đưa giấy cho, bảo: “Không cần dài, cốt thể hiện rõ quyết tâm”. Thế mới khó. Tôi rời chiếc tăng của mình, đi lại chỗ anh Vận. Anh ngẩng lên nói ngay: “Tao nghĩ kỹ lời chính trị viên rồi, chỉ còn cách chích máu viết quyết tâm thư là thể hiện rõ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ thôi!”. Nói là làm, anh Vận lấy chính cái bút máy đang cầm ở tay giơ thẳng lên, rồi đâm nhanh vào ngón tay trỏ bên trái của mình. Một giọt máu đỏ tươi ri rỉ chảy ra. Anh chấm đầu ngón trỏ bên phải vào chỗ máu đang chảy trên ngón trỏ trái, viết hai chữ to gần hết nửa tờ giấy: “Quyết Tâm!”, bằng chữ hoa, dưới là một chữ tên anh: Vận! Anh viết xong, tôi cũng cầm cây bút của mình làm giống như anh. Hai đứa viết xong quyết tâm thư, ôm chầm lấy nhau, rồi đưa hai ngón tay trỏ ri máu chưa khô ra ngoặc tay nhau hẹn ước. Nhưng chuyến đi ấy anh Vận không trở về! Quả bộc phá có sức công phá lớn, sau khi phát nổ đã tạo thành vòng sóng mạnh xô anh đập vào vật gì đó, mấy ngày sau người của cơ sở mới tìm thấy xác anh dạt vào bãi biển vắng. Đã bao nhiêu năm, bây giờ ngồi giữa những đảng viên trong chi bộ làng mình, cầm bát rượu tiết trên tay, tôi lại bỗng nhớ đến anh Vận.

Tôi bưng bát tiết lên, rồi kề môi vào miệng bát. Tôi có cảm giác như tất cả mọi người đang đổ dồn vào mình. Im lặng. Đợi chờ. Gửi gắm. Chỉ nghe tiếng ai đó ngồi phía xa ngoài sân đang hút thuốc lào, hơi rít mạnh, làm nước trong bát điếu réo sôi òng ọc, giòn và thanh lắm. Khi tôi vừa hạ cái bát trên tay xuống ngang ngực, anh Túc từ ngoài sân đã vào đứng bên tôi tự lúc nào, vội đưa tay ra cầm chặt lấy cái bát, giọng nghiêm nghị:

- Tôi không phải là đảng viên, nhưng cũng xin được cùng chi bộ thề!



Sau anh Túc, không biết có bao nhiêu bàn tay cùng chìa ra đón cái bát một lúc. Những tiếng nói đan nhau:

- Tôi cũng xin thề!

- Cho tôi với!

- Của thơm phải chia đều này!

- Tôi một hớp.

- Đây nữa!

- Đây. Đưa đây nào!

Trong nhà, ngoài sân xôn xao lời nói, tiếng cười.

Xúc động vô cùng cử chỉ hân hoan của bà con khi đón nhận một quyết định của chi bộ, mà từ lâu họ hằng khao khát sẽ có lúc như thế, phải có sự thay đổi như thế, mới mong có cuộc sống khác đi, cách cư xử khác đi, ít ra là giữa những con người xóm láng với nhau, rồi ra tới trong làng ngoài xã…Thì ra cái điều chính những cán bộ, đảng viên như chúng tôi có lúc còn băn khoăn do dự, thì những người hàng ngày trực tiếp với công việc đồng áng lại tiếp nhận nó một cách nhẹ nhàng, thoải mái như đấy là nguồn sống của bản thân, gia đình họ. Chi nhìn nét mặt, nghe giọng nói, tiếng cười của những người dân có mặt tối hôm ấy, cũng đủ thấy vững tin vào quyết định của chi bộ rồi.

Quả nhiên, vụ mùa năm ấy lúa của đội tôi tốt hơn hẳn các đội khác.

Như đã thành lệ, trước ngày gặt xã tổ chức đoàn đi kiểm tra thăm đồng và dự tính năng suất của các đội. Đến ruộng của Phương Trà, mấy người đi trong đoàn cứ kháo nhau: “Không biết đội này cho lúa ăn gì mà tốt thế nhỉ?”. Tôi với chị Luân phải nói trái: “Chúng tôi vận động các hộ bỏ thêm tiền ra cho đội đi mua mấy tấn đạm nữa đấy. Chứ cứ số đạm, lân hợp tác giao thì như muối bỏ bể, chờ đấy mà có lúa tốt”.

Sau vụ gặt tháng mười, ban chủ nhiệm hợp tác xã có sự thay đổi: anh Nhạ, kỹ sư, được sở nông nghiệp biệt phái về làm chủ nhiệm theo quyết định 61 CP về tổ chức lại sản xuất và tăng cường quản lý hợp tác xã nông nghiệp, được sở gọi về cho

đi học tập trung ở trường Nguyễn Ái Quốc. Theo điều lệ, hợp tác toàn xã Tiên Trung phải mở đại hội đại biểu xã viên bất thường bầu chủ nhiệm, thay anh Nhạ. Tôi và ông Thuật, bấy giờ đương chức đảng uỷ viên, phó chủ tịch uỷ ban xã, được đảng uỷ giới thiệu để đại hội bầu làm chủ nhiệm. Kết quả tôi đã trúng chủ nhiệm với số phiếu gần như tuyệt đối: ba trăm hai mươi sáu trên ba trăm bốn mươi bảy đại biểu có mặt.

Cuộc họp ban quản trị đầu tiên do tôi làm chủ nhiệm, để nhận bàn giao của anh Nhạ, do bí thư đảng uỷ và phó bí thư kiêm chủ tịch uỷ ban xã chủ trì, có mời tất cả đảng uỷ viên và cán bộ chủ chốt các đoàn thể, trưởng ngành giới xã đến dự, trưa có liên hoan mặn gọi là “tống cựu, nghênh tân” (tiễn cũ, đón mới), theo cách nói của bác Sa, hồi ấy đang làm chủ tịch xã. Cuộc họp chỉ vắng mỗi ông Thuật. Nhưng mấy hôm sau anh Hành, kế toán trưởng, lại nói với tôi, ông Thuật xúi bọn này bảo chủ nhiệm cho các đội đến học cách làm của đội Phương Trà. Hành nói câu ấy với một vẻ úp úp mở mở, làm tôi không khỏi phân vân. Ông Thuật nói thế nghĩa là thế nào, thật hay dỡn? Chẳng lẽ đã có người nào trong chi bộ nuốt lời thề tại buổi tối trang nghiêm ấy rồi sao? Hay với con mắt của một người mấy năm làm việc ở xã, Thuật đã nhận ra cách làm của Phương Trà là “trái khoáy” rồi (!?). Nếu vậy sao trong đảng uỷ, rồi ở đại hội ông ấy không đưa ra. Chỉ cần một lời ngắn gọn đầy sự nghi hoặc cũng đủ làm số phiếu bầu cho tôi giảm đi rất nhiều. Mãi sau này tôi mới biết, việc giới thiệu tôi ra ứng cử chủ nhiệm chỉ là cái sự bất đắc dĩ, cho phải phép, gọi là có dân chủ mà thôi. Khi anh Nhạ có quyết định điều về tỉnh, anh Trường, phó bí thư kiêm chủ tịch uỷ ban huyện, về tận xã làm việc với ông Biền, bí thư, ông Sa, chủ tịch, thống nhất đưa Thuật ra ứng cử chủ nhiệm, trúng, bổ sung tiếp vào thường vụ, vì chủ nhiệm hợp tác xã nhất thiết phải có chân trong ban thường vụ đảng uỷ xã. Được vậy, cán cân quyền lực ở xã này từ hàng chục năm nay vẫn tập trung cả ba chốt, và cũng là ba thành viên duy nhất trong ban thường vụ đảng uỷ xã: bí thư, chủ tịch, chủ nhiệm, đều người làng Phương La, nay bắt đầu bị xé lẻ, chức chủ nhiệm tuột khỏi Phương La sang Phương Trì. Nhưng trước ngày đại hội, theo quy định về công tác cán bộ, bí thư đảng uỷ xã phải lên báo cáo với trưởng ban tổ chức huyện uỷ về dự kiến nhân sự. Oái oăm thay, khi ông Biền lên làm việc với trưởng ban tổ chức thì ông Thìn lại không tán thành. Bầu một chủ nhiệm lại chỉ giới thiệu có một người vào danh sách, thì dân người ta còn đường nào lựu chọn, so sánh, cân nhắc. Chẳng lẽ lại đi so sánh với người ngoài danh sách đề cử à? Đã không bỏ phiếu thì cứ giơ tay cho khỏi rườm rà, tốn kém, mất thì giờ. Còn đã bỏ phiếu là phải thực sự dân chủ, thực sự để người dân có quyền lựa chọn, chứ không thể làm à uôm chiếu lệ, dân chủ giả hiệu cho xong thế được. Ông Thìn bác bỏ lối làm việc theo cảm tính, thẳng thắn yêu cầu đảng uỷ phải chọn ít là hai người, không nhất thiết hiện giờ người đó có trong đảng uỷ xã hay chưa, đảng viên, dĩ nhiên rồi, nhưng cốt là ở cái đức, cái tài và năng lực đảm nhiệm công việc được giao, để ra đại hội xã viên người ta chọn lấy một. Huyện uỷ sẽ cử cán bộ chuyên môn xuống giúp các đồng chí tổ chức đại hội cho thật tốt. Nói thế, nhưng có lẽ hiểu rõ tình hình Tiên Trung, hay biết hôm ấy anh Trường đi họp trên tỉnh không về dự đại hội được ( anh Trường được thường vụ huyện uỷ phân công phụ trách cụm 3, gồm bốn xã: Tiên Trung, Tiên Cự, Tiên Thành, Tiên Cựu, nên những việc quan trọng như đại hội hợp tác xã không thể không có thường vụ huyện trực tiếp chỉ đạo). Hiểu rõ tình hình, hay biết anh Trường đi họp tỉnh không về, ông Thìn về xã rất sớm. Khi tôi ra đã thấy chiếc xe u- oát của huyện uỷ đỗ ở góc sân, còn trong phòng đảng uỷ đóng cửa, nhưng qua cửa sổ thấy mấy cái đầu nhấp nhô. Bác nhân viên tạp vụ uỷ ban thấy tôi bước lên hành lang lại ngỡ tôi đi vào phòng đảng uỷ, vội bảo: “Ông Thìn về rồi, đang hội ý thường vụ ở trong đó, chú đừng có vào đấy”. Mãi đến lúc gần khai mạc, tôi mới được ông Biền gọi ra ngoài thông báo vắn tắt một quyết định, mà chỉ được nghe chứ không được quyền phản bác: “Thường vụ đảng uỷ giới thiệu cậu trong danh sách bầu chủ nhiệm đấy”. Tôi nghĩ ngay, đây là một sự giới thiệu cho khỏi sái, chứ chẳng lẽ bầu một lại giới thiệu một. Nên cũng chẳng muốn nói lại câu nào với ông ấy nữa. Nhưng thật không ngờ, dân người ta công minh, sáng suốt lắm, chứ không nể nang, cảm tình ai đâu. Nếu xét về tuổi tác, năm tháng và công lao đóng góp cho địa phương, ông Thuật ăn đứt tôi. Nhưng khốn nỗi, khi xét một con người, dân người ta đâu chỉ nhìn vào tuổi tác, thời gian công tác ngắn dài, mà cái cốt yếu là tâm đức và năng lực đảm đương công việc đó thôi. Tôi không nghĩ mình hơn ông Thuật mặt nào, kém mặt nào, chí nghĩ, một vài người còn bảo họ nhầm, chứ hàng mấy trăm con người thò bút gạch tên ai trong lá phiếu bầu, thì không thể tất cả đều nhầm. Hơn nữa, lại không phải là người xa lạ, toàn người trong làng, ngoài xã với nhau, càng hiểu nhau quá rõ. Thực tình ngày ấy tôi cũng chưa phân tích được mạch lạc như thế đâu, nhưng lờ mờ cảm thấy như có một quyền lực nào đó, một ai đó, đứng phía sau ông Thuật, bênh vực ông Thuật, muốn cho ông Thuật phải là một trong ba chân kiềng vững chắc ở xã này.

Sau ngày nhận chức chủ nhiệm, một hôm tôi ra nhà bí thư Biền. Ông mới đi họp huyện uỷ ba ngày triển khai nghị quyết của tỉnh uỷ về công tác tổ chức và cán bộ về. Nhìn dáng người cao, xương xương, khuôn mặt dài và cái miệng cũng chẳng chịu thua mặt là mấy, rộng tới gần mang tai, tôi bất giác nghĩ tới câu ví von của người xưa: “Đàn ông rộng miệng thì sang; đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà”, nhưng cố xua đi, cất tiếng hỏi: “Bác đi học nghị quyết về, có gì mới không ạ?”. Ông Biền nói ngay: “Không có gì mới sao gọi là nghị quyết”. Rồi ông cúi xuống chân bàn cầm phích nước lên rót vào ấm, rồi lại tiếp mạch câu vừa nói dở: “Chẳng hạn như biên chế, lần này nghị quyết tỉnh uỷ ghi rõ là các đơn vị hành chính, sự nghiệp phải giảm từ năm đến mười phần trăm; còn sản xuất, kinh doanh căn cứ vào công việc và sản phẩm kế hoạch mà định mức biên chế cho sát hợp. Công tác tổ chức cán bộ cũng sẽ được củng cố, sắp xếp lại. Một số ngành, ban, phòng từ tỉnh đến huyện, thị có thể giải thể hoặc sáp nhập. Tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể đều phải rà soát lại đội ngũ cán bộ, ai có trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thì để, còn không kiên quyết bố trí lại, thậm chí có thể cho nghỉ”. Đúng là bí thư mới đi học nghị quyết ba ngày về có khác, nói thông vanh vách, nhớ đến thuộc lòng từng câu trong nghị quyết. Cứ để ông nói i xì sách thế này chưa biết đến bao giờ mới dừng, mới nghỉ. Người khác ở cái tuổi sáu tư như ông nói nhiều còn thấy đuối hơi, háo cổ, khô họng, chứ ông mà nói đúng bài bản, mà bài bản của ông thì không gì bằng những văn bản nghị quyết ông thích thú đọc đi, đọc lại, đọc tái, đọc hồi, khoanh tròn đề mục, gạch chân những dòng chữ cần lưu ý, thậm chí cắt cả mảnh báo có đăng chỉ thị, nghị quyết ra cất cẩn thận vào cặp. Đã mươi lần nghe ông nói trong các cuộc họp đảng bộ xã, chi bộ thôn; và cũng chừng ấy lần đến nhà ông hỏi han việc này việc nọ, tôi biết ông có khiếu nói dai, nói dài, càng nói càng như nhập đổng, có khi chính ông cũng không biết mình nhập đổng như thế là vì cái gì. Thế nên, giữa lúc ông Biền đang say sưa, tôi lên tiếng cắt ngang:

- Tôi định đến bàn với bác một việc, không biết bác có đồng ý không?

Ông Biền dường như bấy giờ mới sực nhớ có tôi là khách đang ngồi đối diện với ông phía bàn bên kia, vội cầm ấm trà lên, rót vào hai chiếc chén vẫn đặt trong khay nước. Đoạn, cầm một chén lên đặt trước mặt tôi:

- Cậu uống nước đi. Việc gì mà rào đón thế, cứ nói thẳng ra xem nào?

Ông Biền làm việc ở xã đã lâu, từ ngày tôi chưa đi bộ đội. Một con người cần cù chịu khó, lại sáng dạ nhớ lâu. Tin đấy, có ai đi nghe phổ biến nghị quyết về lại nhớ được như ông thế không. Kể cũng là một biệt tài đấy chứ. Ông ít học, chỉ lớp ba lớp bốn là cùng, vì ngày xưa đánh Tây, nhiều người một chữ bẻ đôi không biết, sau bằng con đường bổ túc, chẳng khối người trở thành lãnh đạo to đấy là gì, huống hồ ông Biền vào đảng từ những năm bốn chín, năm mươi. Tuy ít học, nhưng ông được cái sáng dạ và chịu khó, kéo lại. Được cái sáng dạ, chịu khó, ông lại thêm tính nết thật thà, hiền lành, không bao giờ cáu giận với ai. Đến nói năng cũng không khi nào to tiếng, chí đều đều chậm rãi, người nói đủ sức nói, không quá mệt, không quá nhàm; người nghe đủ sức nghe, không thấy chán, không thấy ngủ gà ngủ gật. Thế mới nói được dai, được dài. Ông sống được lòng mọi người, có lẽ còn vì ông không bao giờ nóng nảy, vội vã, không bao giờ tự quyết định một việc gì, dù là bình thường hay hệ trọng đều bàn bạc, trao đổi tập thể, dẫu đó là tập thể thường vụ hay một, hai cán bộ xã, miễn là không phải chỉ một mình ông. Tôi đã một, hai lần, với tư cách bí thư chi bộ, lên xin ý kiến bí thư đảng uỷ, nghe chán, ông phán: “Để xem đã. Có ý kiến thường vụ mới được!”. Mà ý kiến thường; vụ có nghĩa là phải chờ, ít là một, hai ngày, nhiều có khi cả tuần mới có phản hồi. Đấy là bình thường, không, đúng vào kỳ cày cấy gặt hái thì thôi đấy, có khi phải chờ đến kỳ họp thường vụ ba mươi hàng tháng mới ngã ngũ. Biết tính ông vậy, tôi nói thẳng:

- Tôi định vụ mùa này giao khoán một số diện tích lúa cho bà con làm thử, để rút kinh nghiệm. Đề nghị bác cho họp đảng uỷ để ta bàn bạc cho thống nhất.

Khác với mọi lần, và cũng lạ là khác với cả tính cách của ông, bí thư bật lò so ngay:

- Không được đâu. Trên đã cấm không cho khoán hộ dưới bất cứ hình thức nào. Anh mới về không biết, chứ chúng tôi công tác ở địa phương bạc cả tóc đầu nên thừa biết, một khi trên đã cấm thì dưới chỉ biết răm rắp chấp hành. Thế nào là cấp dưới phục tùng cấp trên, anh là đảng viên lại không nắm được nguyên tắc đó à?

- Tôi nắm được chứ ạ!

- Nắm được mà định chống lại cấp trên!

Ông Biền có vẻ không muốn nghe nữa. Đã thế, tôi phải tỏ ra hết sức nhũn nhặn, lễ phép mới có thể líu kéo ông ngồi lại được. Tôi nhỏ nhẹ nói:

- Tôi không chống lại cấp trên. Nhưng bác cứ bình tĩnh nghe tôi trình bày cho hết đã. Trước tiên đây không phải là khoán hộ, mà chỉ khoán cho lao động thôi. Nhà nào có nhiều lao động thì giao nhiều ruộng, ít thì giao ít, không ép buộc, thậm chí ai không muốn nhận ruộng khoán cũng không sao.

- Thế gia đình thương binh, liệt sĩ và người cô đơn thì sao?

Ông Biền bỗng hỏi xen. Tôi thực sự có phần lúng túng, vì trong khi mải mê với ý định khoán ruộng cho xã viên, tôi cũng chưa nghĩ tới một đối tượng chính sách từ lâu được đặt vào hàng “ưu tiên số một”. Ông Biền như nhìn thấy tôi có lỗ hổng này, liền bảo:

- Thôi, hẵng biết thế. Còn gì nói tiếp đi.

Tôi giải thích:

- Trước khi khoán ruộng, hợp tác xã phải lên được định mức canh tác trên từng loại đất, xác định rõ khâu nào tập thể làm, khâu nào người lao động làm. Từ đó, người lao động mới biết họ nhận ngần này ruộng thì đến vụ gặt được bao nhiêu thóc, còn giao nộp cho hợp tác xã và nhà nước bao nhiêu.

Nghe tôi nói đến đấy, ông Biền bỗng kêu lên:

- Thế ra khoán dài ngày suốt vụ à? Hồi còn hợp tác xã nhỏ, Phương La cũng có năm làm thế. Tôi bị một vố hú hồn. Ông Giá gọi cả ban chi uỷ Phương La và tôi lên huyện uỷ, bắt ngồi làm kiểm thảo suốt năm ngày. Quá bằng tù giam lỏng. Mà đến giờ đã hết tai tiếng đâu. Anh không biết, chứ thỉnh thoảng họp huyện, các ông lãnh đạo vẫn đem chuyện Phương La khoán hộ từ mấy năm trước ra bêu gương, như một sự nhắc nhở nơi khác đấy.Thế mà giờ anh lại định làm cái việc, nói anh bỏ qua, những người đáng bậc cha chú anh không dám làm. Dẫu lúc ấy cũng muốn làm lắm chứ, vì cái lợi đã nhỡn tiền, còn dân lại đang đói dài ra. Nhưng đành cắn răng chịu. Bởi đã có chỉ thị, nghị quyết cấp trên rồi, mà đã là cấp trên thì cấp dưới nhất nhất chỉ biết phục tùng vô điều kiện. Thế mà…Tôi tưởng anh còn trẻ, lại có trình độ, năng lực mà làm chủ nhiệm thì cũng có thể đưa xã này tiến lên được. Chứ không nghĩ anh lại khờ dại đến thế. Đường quang không đi, lại định đâm quàng vào bụi rậm làm gì cho nhọc xác. Chả trách hôm họp thường vụ có ông Trường xuống dự, khi đưa ra dự kiến anh làm chủ nhiệm hợp tác thay anh Nhạ, ông ấy đã phân tích, so sánh rất kỹ giữa anh và anh Thuật, rồi kết luận: “Tay Điền đang học đại học tại chức, có trình độ đấy, nhưng còn nông nổi và ít kinh nghiệm lắm, chứ làm sao bàng đồng chí Thuật được!”.

Thế là rõ cái việc bầu chủ nhiệm hôm trước, và vì sao ông Thìn xuống xã sớm thế, mà tôi, đương sự, lại chỉ được báo trước mấy phút trước khi vào đại hội. Nhưng dẫu sao thì việc đã rồi, chớ nên bận lòng làm gì nữa, cái đích nhắm tới lúc này là tranh thủ sự ủng hộ của bí thư. Tôi hỏi ông Biền một câu có ý rào đón:

- Bác có biết bên Phương Trà vụ vừa rồi làm sao lúa lại tốt hơn các đội khác?

Ông Biền nói ngay, không cần một giây suy nghĩ:

- Các anh bắt bà con góp tiền mua thêm phân đạm về bón, nhẽ nào chả tốt!

Tôi suýt bật cười, vì cái câu của ông hoàn toàn giống câu trả lời của bà con Phương Trà chúng tôi thống nhất dặn nhau “cả làng nói dối” thế, nếu có ai người hàng xã, hàng tổng hỏi. Nhưng không cười được, tôi quay mặt đi giây lát, rồi mới nói một câu, không bác bỏ, cũng không ra thừa nhận:

- Ai người ta dại lại đi góp tiền cho đội mua thêm đạm về bón, để được tiếng là lúa tốt, mà bồ bịch nhà nào nhà ấy cũng chẳng được thêm cân thóc nào.

- Thế sao hôm thăm đồng, các cậu báo cáo là ngoài số phân đạm hợp tác xã cấp, đội còn vận động bà con góp tiền mua thêm phân đạm về bón?



Tôi nói lấp lửng:

- Cũng có thế thật. Nhưng cũng không hẳn thế.

Ông như bừng tỉnh:

- Thôi thôi, thế thì các cậu khoán chui rồi! Không thế, tài thánh lúa Phương Trà cũng không thể tốt hơn lúa Phương Trì, Phương La được. Tôi làm chủ nhiệm từ ngày bốn hợp tác nhỏ sáp nhập thành hợp tác toàn xã, tôi biết, ruộng đất Phương Trà, Phương Lưu là cái thứ ruộng chó chạy không lấm dái, gái chạy không lấm quần, chứ quái gì. Thế mà vụ trước lại dẫn đầu năng suất thì lạ thật. - Giọng ông bỗng trầm hẳn xuống, vừa như cảm thông, lại vừa như răn đe. - Có đúng là khoán chui thì nói thẳng ra, chứ nhỡ trên mà biết là lôi thôi lắm đấy!

Tôi hỏi, nửa úp nửa mở:

- Nhưng nhỡ đã khoán thì bác có tán thành không?

Ông Biền không trả lời ngay, mà lại cúi xuống gầm bàn cầm phích nước nóng lên rót vào ấm. Giây lát mới cất giọng chậm rãi, mạch lạc như những điều ông nói đã ngấm trong ông tự bao giờ:

- Kể làm thế thì trái với chủ trương của trên, lâu nay vẫn cấm các hợp tác xã không được khoán đến hộ, dưới bất cứ hình thức nào. Mà không khoán, cứ để hợp tác ôm hết mọi việc thì lắm vãi không ai đóng cửa chùa, người nọ dựa người kia làm quấy quá cho xong, sống chết mặc bay tối ngày lấy điểm, cũng chết.

Bây giờ thì tôi không thể không đánh bài ngửa với ông:

- Báo cáo thật với bác, vụ vừa qua bên Phương Trà chúng tôi đã cho khoán rồi, nên mới được một vụ lúa thế. Chứ không, bác bảo ruộng bên tôi chó chạy không lấm dái, gái chạy không lấm quần, làm sao được mật điền như bên bác, mà vụ vừa rồi lúa bên ấy lại tốt hơn bên này.

- Biết ngay mà! Hôm đi thăm đồng, thỉnh thoảng lại thấy một mô đất đê trên bờ sơn trát cẩn thận như kiểu đánh giấu phần ruộng, tôi cũng ngờ ngợ các cậu bên ấy cho khoán hộ. Nhưng lúc hỏi ông cụ nhà anh, thì ông cụ lại cứ thề sống thề chết: “Đội này mà cho khoán thế ấy à, tôi thà làm con cho chú, chứ sao lại nỡ giấu cả bí thư”. Thì ra ông cụ giấu cả tôi thật.

- Bác thông cảm! Cũng là vì cái bụng của dân, mà cả chi bộ Phương Trà chúng tôi đã phải cùng nhau thề tuyệt đối giữ kín việc này.

Tôi tránh không nói đến hai tiếng “ăn thề”, chỉ nói là “cùng nhau thề”, vì sợ động đến chuyện thề bồi, ông lại phê phán là mê tín dị đoan thì còn đủ là rách việc. Thế mà ông đã dằn giọng, bảo:

- Lại còn thế nữa!

- Vì mới một đội làm nên phải giữ kín, bác ạ!

- Vậy dễ cả hợp tác xã làm thì không cần giữ kín à? Anh lầm!

Ông nói thế có nghĩa là trong lòng ông cũng xuôi xuôi. Tôi muốn cười thật to cho! Ài những giây phút căng thẳng, nặng nề từ khi bước chân vào nhà ông đến giờ. Nhưng kịp nén, bảo:

- Bác tán thành với đề xuất của tôi rồi đấy nhá!

Bí thư Biền dè dặt:

- Nhưng phải có ý kiến của thường vụ đảng uỷ mới được.

Dĩ nhiên ý kiến chỉ đạo của thường vụ là cần, nhưng thường vụ có ba người, hiện giờ chỉ còn hai, vì sau khi anh Nhạ về tỉnh, tôi lên thay anh làm chủ nhiệm, nhưng huyện uỷ chưa chỉ đạo bầu bổ sung thường vụ, nên vẫn khuyết một. Thế nên tôi đề nghị với ông Biền đưa vấn đề này ra bàn trong cuộc họp các bí thư chi bộ, trưởng ngành giới xã, ban quản lý hợp tác xã và các ban chỉ huy đội, nghĩa là, một cuộc họp mà ở xã lâu nay quen gọi là họp dân chính đảng. Sở dĩ có cuộc họp với thành phân rộng như thế, vì tôi cũng ý thức được việc giao ruộng khoán cho nông dân là một vấn đề lớn và hệ trọng, chứ không phải là việc có tính nhất thời mà bảo bàn qua loa là xong. Vì vậy, trước khi triển khai thực hiện phải được bàn bạc dân chủ, rộng rãi, tạo sự nhất trí cao và tìm ra cách làm có hiệu quả. Tôi cũng nghĩ, việc này thiết thân đến bát cơm manh áo của mỗi người, mỗi gia đình nên đã không đưa ra thì thôi, chứ đưa ra bàn rộng rãi rất có thể được mọi người tán thành làm ngay và sẽ có nhiều cách làm hay. Thực bụng nhiều người, kể cả bí thư Biền, tôi nghĩ là cũng biết khoán như thế là có lợi, nhưng chưa dám nói, chưa dám làm vì còn rụt rè, chờ đợi, ngóng trông nhau, sợ sệt cấp trên. Biết đâu chỉ vì một ý kiến đề xuất giao ruộng khoán cho hộ mà bị trù miệt không biết đến bao giờ. Nhưng khi đã có người khơi mào, thì như hòn than ủ bấy lâu âm ỉ, chỉ chờ ngọn gió thuận chiều thổi đến giữa một ngày đẹp trời là lập tức cháy bùng lên. Việc giao ruộng khoán cho xã viên vừa đưa ra trong hội nghị dân chính đảng liền được mọi người nhất trí, hầu như không có ý kiến nên hay không nên khoán, mà chỉ có bàn cách khoán thế nào cho công bằng, bảo đảm cho xã viên, hợp tác xã và nhà nước đều có lợi, chứ không thiên về lợi ích của một bên nào, nhưng lại khuyến khích được mọi người chăm lo công việc đồng áng.

Nói thì như vậy, nhưng sự thực bao nhiêu việc được đưa ra bàn, không phải một cuộc mà có tới vài ba cuộc họp của đảng uỷ, của chính quyền, của hợp tác xã. Họp chung, lại họp riêng từng bộ phận: kế hoạch để lập định mức khoán mỗi sào ruộng người lao động đảm nhận làm bao nhiêu khâu canh tác, được hưởng bao nhiên cân thóc, còn lại bao nhiêu khâu do tập thể làm, với số thóc được nhận là bao nhiêu. Rồi ruộng giao cho gia đình chính sách, thương binh, liệt sĩ như thế nào đê vừa bảo đảm việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công, nhưng hợp tác xã lại không ôm đồm như trước. Lại còn nhà trẻ, lớp mẫu giáo cha mẹ có phải đóng góp nuôi con không, hay vẫn để hợp tác xã nuôi như bấy lâu; còn các cô nuôi dạy trẻ có nhận ruộng khoán, hay hợp tác xã vẫn trả thóc từng vụ như mọi khi. Ôi chao, biết bao nhiêu công việc đi theo cái quyết định hệ trọng ấy. Vậy mà, khi công việc chuẩn bị gần xong, chí còn chờ lên lịch giao ruộng khoán ở từng đội, thì trong một cuộc họp đảng uỷ xã, ông Thuật còn đưa ra câu hỏi: “Cho khoán thế này, huyện mà biết thì trách nhiệm ai chịu đây?”. Bấy giờ đã có ý kiến: “Đảng bộ xã chịu, chứ còn ai!”. “Thì đến cảnh cáo như Phương Trà năm nọ là cùng chứ gì”. Ai nói thế là muốn nhắc đến cái vụ Phương Trà, do bác Lạc làm chủ nhiệm năm nọ đã làm cuộc “tam thanh” trước khi sáp nhập các hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã quy mô toàn xã; nhưng lại quên bản chất của hai việc hoàn toàn khác nhau. Nhưng mà thôi, sa vào chuyện ấy làm gì, tôi đưa mắt nhìn ông Biền, vẫn thấy ông ngồi lặng lẽ, vẻ mặt bần thần. Cũng là lẽ thường tình, bởi ông là bí thư, đứng đầu một đảng bộ xã, huyện mà biết tất ông là người gánh trách nhiệm nặng nhất. Nhưng sự thực lại không do ông. Tôi đứng lên với một thái độ dứt khoát: “Lấy tư cách đảng viên, với cương vị chủ nhiệm hợp tác xã, nếu cấp trên biết mà phê bình việc Tiên Trung giao ruộng khoán cho xã viên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm”.

Tôi thật không ngờ chỉ chưa đầy sáu tháng sau, tôi phải nhắc lại lần nữa câu nói ấy, chỉ khác là ở cấp cao hơn: thường vụ huyện uỷ.

Vụ chiêm xuân năm ấy là một vụ có rất nhiều khó khăn về thiên tai. Trước tết giá rét kéo dài. Sau tết mưa phùn dầm dề, hơn hai tháng liền không có một ngày thấy bóng mặt trời. Lúa cấy xuống xanh thì có xanh, nhưng cây rảnh rớt bó chặt gốc, không đẻ được nhánh. Rồi khi mưa hảnh, nắng hé lên thì sâu bệnh lại nở như trấu. Thế nhưng vụ chiêm xuân ấy, hợp tác toàn xã Tiên Trung chúng tôi vẫn đạt năng suất lúa cao hơn năm trước, chỉ kém mấy anh lá cờ đầu về năng suất lúa của huyện chút đính. Nhưng ái oăm thay, cũng bởi cái sự “nhảy vọt” về năng suất ấy mà chúng tôi đã bị kiểm điểm gay gắt.

Thu hoạch vụ chiêm xuân xong gần một tháng, theo cái lệ không biết đã có từ bao giờ, tỉnh, rồi sau đó là huyện, mở hội nghị tổng kết sản xuất chiêm xuân và phát động sản xuất vụ mùa. Sát ngày họp, sở nông nghiệp đưa xe con về tận nhà đón tôi lên để chuẩn bị nội dung báo cáo điển hình ở hội nghị. Tôi đi sáng, thì chiều ông Thuật lên gặp anh Trường, chủ tịch huyện, cũng là em rể Thuật, nói hết mọi chuyện ở Tiên Trung và việc tôi đầu têu khoán ruộng, ừ, thì cũng là một kiểu trâu buộc ghét trâu ăn thôi, nhưng kiểu buộc này gây hậu quả thật khó lường. Khi tôi đi họp trên tỉnh về, ông Biền đến nhà thở ngắn than dài: “Bí thư huyện uỷ cho gọi cánh mình lên tường trình trước thường vụ về việc giao ruộng khoán đấy. Biết ăn nói thế nào với các bố ấy đây. Khéo không lại như ông Lạc năm nọ thì công cốc!”. Câu nói của ông làm tôi nhớ lại hôm tôi đến nhà hỏi ý kiến ông về cho khoán ruộng, ông cũng nhắc đến vụ ông Lạc khi còn làm chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ. Nhưng không với giọng buồn nẫu ruột gan như vừa nãy. Tôi thầm hiểu là ông Lạc ngày ấy chỉ mới làm bí thư kiêm chủ nhiệm hợp tác xã một làng; còn đằng này, ông đã làm tới chức bí thư đảng uỷ xã hàng chục năm nay, giờ lại vì cái chuyện khoán khiếc vớ vẩn do thằng nhãi nhép là tôi đầu têu, nên ông phải gánh chịu kỷ luật như ông Lạc năm nọ thì đúng là…công cốc thật! Tôi nghĩ vừa thương, lại vừa giận ông bí thư già. Tận tuỵ sớm hôm lo làm tròn trách nhiệm người đứng đầu một xã, nhưng khi có việc hệ trọng thì lại không dám lấy cái uy quyền của một người đứng đầu ra bênh vực cho người khác, gánh lấy trách nhiệm về mình. Nhưng nhớ tới lời nói của mình trước hội nghị dân chính đảng xã hôm họp bàn về khoán ruộng, tôi bảo ông Biền: “Bác cứ yên tâm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước huyện uỷ, không để phải phiền luỵ đến bác”. Trên đường đạp xe lên huyện, chỉ có ba người: tôi, ông Biền và ông Sa, chủ tịch uy ban xã, tôi giao hẹn: “Tý nữa hai bác cứ để tôi báo cáo. Bao nhiêu

tội tôi nhận hết”. Ông Sa bảo: “ừ, anh báo cáo trước, huyện có hỏi gì nữa chúng tôi bổ sung”. Nhưng còn gì mà bổ sung. Sau khi tôi báo cáo hết những gì hội nghị dân chính đảng xã bàn và quyết định, thì anh Trường, không chỉ phê phán tác hại của việc Tiên Trung giao ruộng khoán là làm sống lại phương thức sản xuất cá thể, đưa nông dân đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn nói nhiều về cá nhân tôi từ ngày ở bộ đội về làm đội trưởng Phương Trà đã cho khoán chui theo cách đó, rồi từ khi lên làm chủ nhiệm lại triển khai lối khoán ấy ra toàn xã, đê đi tới kết luận tôi cố tình đi ngược lại chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, nếu không kịp thời ngăn chặn và có hình thức kỷ luật nghiêm khắc, thì cách khoán ở Tiên Trung trở thành ngòi nổ dây chuyền ra cả huyện, khéo không chính huyện uỷ lại bị kỷ luật tập thể thì còn ra thể thống gì nữa. Cuộc họp kéo dài suốt từ hai giờ chiều đến sẩm tối. Tôi có cảm giác như không còn là cuộc họp giữa cấp trên với cấp dưới bàn về một việc đã rồi để tìm cách tháo gỡ, cũng không đơn thuần là cuộc kiểm điểm sai lầm, khuyết điểm của một cấp uỷ cấp dưới, mà là một cuộc lấy cung kẻ phạm tội chống đối là tôi, hay ít ra cũng gần như thế, vì suốt từ khi tôi báo cáo xong, đến khi cuộc họp giải tán, tôi không được phép nói nửa lời nào nữa. Có, cũng có một lần tôi xin được ý kiến, nhưng anh Trường đập bàn đánh rầm một tiếng, chỉ tay về phía tôi với một vẻ căm tức tột độ: “Khoán cho lao động hay xã viên cũng đều là một cách đưa nông dân trở lại con đường làm ăn cá thể, tư bản chủ nghĩa. Đấy là một cái tội lớn: tội chống lại đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của đảng. Kỷ luật đuổi ra khỏi đảng còn là nhẹ!”.

Nửa tháng sau, anh Trường về họp với đảng uỷ xã công bố quyết định kỷ luật tôi: cách chức thường vụ đảng uỷ kiêm chủ nhiệm họp tác xã và lưu đảng mười hai tháng. Quyết định thứ hai: bổ nhiệm ông Thuật vào thường vụ đảng uỷ và phân công làm chủ nhiệm hợp tác xã toàn xã, chứ không cần chờ đại hội đại biểu xã viên bầu, như lâu nay vẫn làm. Rất may là mức kỷ luật của tôi chỉ đến thế, chứ không như anh Trường nói ở cuộc họp huyện uỷ hôm trước: đuổi ra khỏi đảng còn là nhẹ!

Nhưng dẫu sao, đến mấy tuần sau đó, tôi vẫn thấy ngao ngán cả người, chẳng còn thiết học hành, làm lụng gì nữa. Kỳ học tập trung ở trường đại học tại chức tháng ấy tôi bỏ. Thầy tôi khuyên: “Anh (thầy tôi vẫn gọi con cái trong nhà bằng anh, chị chứ không bao giờ xưng hô mày, tao) còn trẻ (năm ấy tôi hai mươi chín tuổi), mới vấp ngã một lần đã nhũn như con chi chi thì hèn lắm. Làm trai phải có dũng khí, thua keo này bày keo khác. Chứ hơi tý đã như gà phải cáo còn làm nên trò trống gì”. Rồi như để tôi khuây nỗi buồn, thầy tôi rủ anh Túc, hai nhà đóng gạch chung. Kể cũng không còn dịp nào thuận lợi hơn. Nhà tôi hổi chống chiến tranh phá hoại của Mỹ anh ở đây biết rồi đấy, ba gian nhà tre mái rạ tường đất. Tôi đi vắng, ở nhà chỉ có hai ông bà già và em Viên còn đi học. Ông cụ cũng mới chuẩn bị được ít bạch đàn, sau khi mang ra lót đường xong cũng bị giập gẫy gần hết. Vả lại, lưng vốn cũng không có, lấy gì mà xây nhà dựng cửa. Khi tôi mới ở bộ đội về, thầy tôi cũng muốn làm lại cái nhà để tôi còn lấy vợ. Nhưng vừa chân ướt chân ráo về tôi đã tham gia công tác ngay, ông cụ cũng không muốn bày ra làm gì nữa. Khi tôi nghỉ công tác cũng đúng vào mùa khô hanh. Đây là dịp cho những nhà có người làm, lại muốn xây cái sân, cái bếp, bể nước, nhà tắm, hoặc trường lưng một chút thì xây gian nhà gian cửa, có thể ra bơn bãi, thùng đấu lấy đất, hoặc lấy đất ngay góc vườn nhà đóng gạch mộc, rồi mua than về đốt lò cải tiến cũng không có gì vất vả lắm. Nhà tôi với bên anh Túc chỉ làm hơn một tháng đã đóng được gần ba vạn viên gạch. Thế nên bây giờ anh về mới có nhà xây thế này, chứ tôi còn làm chủ nhiệm đến bây giờ, có khi vẫn ở nhà tường đất cũng chưa biết chừng. Thật đấy! Tính ông cụ nhà tôi anh biết rồi. Còn tôi thì thà rằng ở túp lều bẹp, chứ xà xẻo của tập thể là tôi chúa ghét. Không phải cứ làm chủ nhiệm, chủ tịch, bí thư xã là muốn lấy gạch, lấy gỗ, cắm đất làm nhà thế nào cũng được đâu. Chẳng qua dân người ta không muốn phiền luỵ đến mình, không muốn mua chuyện, không tiện nói ra, nhưng trong bụng họ cũng khinh. Trước mặt thì bác bác cháu cháu, anh anh em em, một điều báo cáo chủ nhiệm, hai điều thưa chủ tịch, bí thư; nhưng sau lưng thì người ta một điều thằng ấy, hai điều thằng nọ, quân tham ô, đồ ăn cắp, nhục quá chó ấy chứ. Làm việc mà để người ta kính nể, tin cậy mới khó, chứ để người ta khinh nhờn, ngờ vực thì khó gì. Tôi không nói hay, chứ từ khi tôi làm đội trưởng, rồi chủ nhiệm, chưa lần nào bảo thư ký, thủ quỹ đưa một hào cho mình tiêu vào việc gì. Không phải tôi lúc nào cũng có tiền trong túi đâu. Làm cán bộ xã ăn công điểm tính ra bằng thóc, hết vụ hợp tác mới trả, chứ có được lĩnh lương bằng tiền hàng tháng đâu mà bảo lúc nào cũng có tiền trong túi. Nói thật với anh, có lần tôi đi học đạp xe từ nhà lên thành phố gần ba chục cây số, lại ăn ở tại trường suốt một tuần, trong túi chỉ có hai đồng bạc, lúc về vẫn còn năm hào thủ đáy túi, phòng khi đi đường xì xăm, xịt lốp còn có tiền sửa.

Tôi chán nản mất đến ba tuần. Rồi nỗi buồn cũng qua. Từ tháng sau trở đi tôi lại đạp xe lên trường học. Anh Đĩnh ngoài Phương Lưu, ngày ấy cũng làm bí thư kiêm đội trưởng như tôi. Vâng, giờ thì anh ấy làm phó chủ tịch uỷ ban phụ trách công an xã. Hai anh em học cùng lớp. Biết tôi bị kỷ luật còn lẽo đẽo đi học bằng tiền gạo nhà, anh ấy bảo, cũng là cảm thông với hoàn cảnh của tôi thôi: “Học về làm, chứ học về bỏ đấy thì học làm gì. Còn thoát ly thì chú không thể đi được nữa rồi. Đời nào ông Giá, ông Trường lại điều chú lên huyện. Mà dẫu đi đâu cũng không thoát khỏi chứng nhận của đảng uỷ, uỷ ban xã. Mà mơ với mộng thoát ly làm gì nữa, chú ơi!”. Tôi thực cũng chưa nghĩ đi học đê được đi thoát ly, nhưng học đê làm cái anh cán bộ địa phương cho tốt thì đúng là tôi có nguyện vọng. Nhưng từ nay nguyện vọng nhỏ bé ấy, chắc cũng không được nữa rồi. Dẫu sao, đã ngồi trên lưng cọp thì tôi cứ phải đi thôi. Gắng mà theo cho hết khoá, chứ bỏ thì tiếc lắm. Thầy tôi cũng động viên vậy, làm tôi thêm vững tâm.

Còn hợp tác xã, ngay sau khi tôi bị kỷ luật cách chức thường vụ đảng uỷ kiêm chủ nhiệm, thì Tiên Trung cũng không giao ruộng khoán nữa. Nhưng là nói hợp tác xã không khoán, chứ tôi biết tỏng có đội vẫn khoán ruộng cho hộ. Mà không riêng Tiên Trung, tôi còn biết huyện này cũng có mấy anh khoán cho hộ nữa cơ, nhưng có cạy răng bảy ngày họ cũng không nói. Vâng, cái đó thì tôi cũng không dám nói là cấp trên có quan liêu hay không? Nhưng đoàn kết, tối nghĩ là họ phải đoàn kết lắm thì tất cả cán bộ, đảng viên và quần chúng mới đồng thuận kín tiếng được như thế chứ. Đúng rồi, một khi mọi người đều ý thức được quyền lợi thiết thân của mình là ở chính cái cánh tay mình giơ lên và cái mồm mình há ra, thì người ta tự biết cách làm gì và làm như thế nào để bảo vệ quyền lợi ấy. Hay nói như kinh tế chính trị học mà tôi được học qua, thì một khi dân chủ được bảo đảm, tự do cá nhân được phát huy, sẽ trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển, có khi còn tạo bước đột biến khó lường. Nhưng này, anh có nghe thấy gì đấy không?

- Hình như có tiếng người kêu hay sao ấy cậu ạ?

- Đúng rồi, có tiếng người kêu!

- Lại như có cả bước chân đang chạy ngoài đường nữa là thế nào nhỉ?

Điền và Cải bỗng dừng câu chuyện, ngơ ngác hỏi nhau.

Hai người vùng dậy bước ra ngoài.

Trăng cuối tháng đã lên khỏi ngọn tre, toả ánh vàng, ánh bạc mung lung xuống cõi trần.

Đúng là có tiếng người kêu ngoài đầu làng, phía đầm sen, nghe rất rõ “Đánh cho chết! Đánh cho chết!”.

Lúc ấy, dễ chừng bằng người rấm chín nồi cám lợn. Ông Mải ngồi vót nan đan cả ngày cũng mỏi, lên giường nằm. Còn bà vào nửa làng trong, có cô cháu về đằng ngoại đang nằm cữ, gần tuần nay tối nào bá cũng vào ngủ với cháu. Điền đi học tập trung ở trường một tuần về cũng mệt, hai anh em ngồi ngoài bàn uống nước, chuyện trò được một lúc thì Điền rủ Cải vào giường nằm cho đỡ mỏi, nói chuyện được lâu. Nhà ngoài chỉ còn mình Viên với cây đèn hoa kỳ vặn nhỏ đến trong màn. Viên có thói quen trước lúc đi ngủ, buông màn xong thể nào cũng cầm chiếc đèn con vào soi muỗi, ở làng quê vườn tược rộng, bờ bụi nhiều, cây cối loà xoà, rậm rạp nên nhà nào cũng lắm muỗi. Bây giờ có thuốc phun, cũng bớt đi nhiều, chứ ngày xưa, tối đến nhà nào nhà nấy còn phải mang trấu, bẫn vào trong nhà đốt ủ cho khói nghi ngút để muỗi ngạt chết, hoặc táo tác bay ra ngoài, đậu vạ vật ở đâu đó cho người ngủ yên giấc, rồi khi ấy muỗi muốn tìm đến hơi người thì lại bay vào.

Đúng là Viên với Bính, con trai duy nhất của bà Bao, vợ liệt sĩ Phạm Công Bao (đàn bà vùng này thường chịu nước nép, lấy chồng là gọi luôn tên chồng, có người đến lúc chết, cháu con cũng không biết tên cúng cơm của bà, của mẹ là gì nữa), cháu gọi Phạm Công Thuật, chủ tịch xã, bằng chú ruột. Viên và Bính chưa có gì gắn kết với nhau, theo nghi thức đã thành tục lệ bền vững ở làng xã mỗi khi trai khôn lấy vợ, gái ngoan tìm chồng. Nhưng gần năm nay, nhất là từ khi Viên bị ban nông nghiệp huyện cho về giảm biên, sau khi Điền, anh trai Viên, bị kỷ luật, thì tự nhiên Bính lại hay sang Phương Trà, vào nhà Viên chơi. Viên ban đầu cũng chẳng nhận ra điều đó. Bởi khi ấy cô đang buồn. Buồn nẫu ruột nẫu gan. Chứ lại không. Ai đời học xong lớp mười, thi tốt nghiệp, nhưng không đủ điểm thi đại học, đành vào trung cấp nông nghiệp tỉnh vậy. Hai năm học vèo qua, tốt nghiệp loại ưu mà Viên chẳng đi đâu được, trừ một nơi sẵn sàng tiếp nhận bất cứ người nào, miễn là còn sức dài vai rộng, ấy là nông trường cói thuộc sở nông nghiệp nằm mãi tận vùng bãi Đông Hưng cuối sông đầu biển. Viên ở nhà. Cũng là hợp ý nguyện bà mẹ, chỉ muốn con ở nhà, rồi lấy chồng gần, có bát canh cần nó cũng mang cho.

Nhưng được ít lâu, chẳng hiểu sao ông anh trai vừa lên chức chủ nhiệm hợp tác tháng trước, tháng sau đã xin được cho cô em gái lên làm ở ban nông nghiệp huyện. Viên sáng đạp xe đi làm, trưa ăn cơm tập thể, tối lại đạp xe về ăn ngủ ở nhà với mẹ. Cứ tuần tự như thế. Được vài tháng, bà mẹ đã thấy con gái có gì khang khác. Quần áo giặt xong gấp cẩn thận, đặt vào giữa tờ báo khổ rộng, gấp lại, để xuống dưới chiếu đầu giường. Tối nào trước khi đi ngủ cũng đánh răng rất lâu. Trước chỉ đánh răng một lần sáng ngủ dậy, giờ đánh ngày hai lần. Đánh răng xong rửa mặt, chải đầu. Dễ đến một tháng, rồi hai, ba tháng chẳng mấy tối thứ bảy con gái không có bạn trai đến chơi. Anh nào cũng lễ phép, ra thưa vào gửi, một điều cháu, hai điều cháu, có anh còn mẹ mẹ con con ngọt như mía lùi. Vậy mà đời thật không còn biết thế nào, nay nắng mai mưa, thậm chí sớm nắng chiều mưa, khó lường. Viên đang là một cô gái danh giá, bạn trai nườm nượp tới nhà, thì đùng một cái tháng trước anh trai bị kỷ luật cách chức chủ nhiệm, tháng sau em gái cũng ngậm ngùi cầm tờ quyết định giảm biên về địa phương. Viên về ở nhà, với tâm trạng vô cùng chán ngán, dễ cả tháng không bước chân ra đến ngoài. Phần vì buồn bực, xấu hổ, bởi không phải người nào ở quê mỗi khi thấy người làng đi thoát ly, rồi lại quay về, cũng đều nhìn nhận với ý nghĩ cảm thông, chia sẻ mà thường là soi mói, khinh miệt. Phần vì sau khi Viên nhận quyết định giảm biên về nhà, bao nhiêu bạn trai mà hơn năm trời Viên đi công tác quen biết thân, sơ, đều bỗng nhiên xa lánh, không chàng nào bén mảng tới nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.com

truyện sắc
Vạn Cổ Thần Đế
truyện full

Nhận xét của độc giả về truyện Bão Đồng

Số ký tự: 0

    Bình luận Facebook