Họa Quốc

Chương 11: Hồi Thứ Mười Một: Hồng Trần Náo Nhiệt

Thập Tứ Khuyết

06/03/2015

“Chủ nhân! Vương phủ bị bao vây rồi, bảy nghìn thiết giáp quân đã bị diệt sạch không còn một mống!”.

“Chủ nhân, Phong Nhiêu hầu và Cấm quân thống lĩnh Vương Ngũ đều phản bội rồi, bây giờ đang chĩa giáo về phía chúng ta!”.

“Chủ nhân, thám tử chúng ta phái đi đều bị giết sạch rồi, Tố kỳ quân chặt đầu họ treo ngoài doanh trại thị uy, chúng ta phải làm sao?”.

“Chủ nhân! Trốn đi!”.

“Chủ nhân, trốn đi!”.

“Chủ nhân…”.

Di Phi cảm thấy mình như đang nằm mơ, vì tầm nhìn trở nên mơ hồ, những gương mặt của thuộc hạ đều chỉ còn lại những đường viền mơ mơ hồ hồ, khuôn miệng họ đóng đóng mở mở, mỗi chữ phát ra đều rất rõ ràng, nhưng không có cách nào hiểu được họ nói gì.

Gã im lặng ngồi trên thuyền hoa.

Đây là nơi gã thích nhất – gã không thích đất liền, gã thích nước.

Khi còn nhỏ gã cảm thấy rất lạ lùng, tại sao nước nhẹ như vậy lại có thể đẩy được gỗ nổi lên, còn con người rơi xuống nước, vốn sẽ bị chìm xuống, nhưng có người lại biết bơi… Gã bị hấp dẫn bởi những sự vật thần kỳ của thế giới tự nhiên, nghiên cứu đến quên ăn quên ngủ, muốn tìm cách hiểu rõ.

Mẫu thân của gã là một phi tử bình thường, hoàng đế thi thoảng qua đêm ở chỗ bà, không đặc biệt sủng ái, nhưng cũng không quá lạnh nhạt. Phụ hoàng thấy gã nhìn hồ nước đến ngẩn người, thấy rất không vui. Mỗi lần như thế, mẫu thân liền khuyên gã luyện võ.

Mẫu thân nói: “Nếu con luyện võ giỏi, phụ hoàng con sẽ thích con”.

Thế nhưng, tại sao gã phải cần nam nhân trong mắt chỉ có tranh đoạt, giết chóc đó ưa thích? Cùng là nhìn một con chim, gã sẽ quan tâm tại sao con chim đó lại có thể bay, mà nam nhân đó lại quan tâm làm sao có thể dùng đao giết chết con chim đó một cách nhanh nhất.

Căn bản không phải là người cùng một thế giới, không có điểm chung, cũng sẽ không có gì luyến tiếc…

Thế nên, gã đắm chìm trong thế giới của mình, sống rất giản đơn, cũng rất vui vẻ. Mẫu thân rất thương gã, tuy cũng từng hy vọng gã chịu khó luyện võ, giành được sự yêu mến của hoàng đế, nhưng chung quy vẫn không cưỡng ép gã. Bà xuất thân thương gia, nhà mẹ đẻ không có tư cách vào cung thăm nom, chỉ có thể gửi chút đồ vào dịp Tết mỗi năm, có lúc thạch lựu của Giang Bắc, có lúc là bánh quả hồng của Tây Đảo,… bà rất thích những đồ ăn vặt này, nhưng lại sợ bị người khác chê cười, lần nào cũng ăn một cách lén lút.

Nhờ mẫu thân, gã bắt đầu thích những đồ ăn vặt địa phương đủ mùi đủ vị đó, mà thứ gã thích nhất trong số đó chính là tranh đường.

Bởi vì tranh đường chỉ có thể gửi vào cung vào mùa đông, nếu để lâu một chút sẽ bị cứng hoặc chảy ra. Cho nên, mỗi lần chỉ cần mở tay nải ra thấy bên trong có tranh đường, việc đầu tiên gã và mẫu thân làm là trốn trong một căn phòng nhỏ, tránh khỏi tầm nhìn của người khác, chỉ có hai mẹ con chia nhau một miếng tranh đường… Những tháng ngày ấy đối với một đứa trẻ mà nói hiển nhiên là rất vui vẻ, rất vui vẻ…

Cho đến một ngày…

Ngày đó, quân Trình thất bại ê chề rút từ biên cương Yên quốc về đến đế đô, phụ hoàng vì thế mà nổi giận lôi đình, mà đêm đó, ngài vô tình đi ngang qua nơi ở của mẫu thân, nghe thấy mẫu thân đang hát.

Thực ra mẫu thân luôn là một người biết thích nghi với hoàn cảnh, những ngày hoàng đế không đến lâm hạnh, bà thường thêu hoa, hát ca, nghe nói năm đó phụ hoàng vì nghe thấy bà hát trên phố, cho nên mới chọn bà vào cung.

Hát có lẽ cũng không sai, sai ở chỗ bà hát quá vui vẻ, mà ca từ lại là: “Chim yến(1) phương nam hỡi, khi quay về mi có mang tin tức của chàng chăng?”.

Phụ hoàng đang giận dữ vì thua trận, lại thêm nghe thấy chữ “Yến”, lập tức không nén được giận xông vào, rút cây roi bên hông ra đánh mẫu thân.

Mẫu thân kêu lên thất thanh, khiến gã đang ngồi khắc con thuyền nhỏ trong gian phòng sát vách giật mình, vội vã mở cửa ra, liền nhìn thấy cảnh phụ hoàng đang dùng roi điên cuồng đánh mẫu thân.

Mẫu thân lăn lộn không ngừng dưới mặt đất, rên rỉ đau đớn nhưng không dám cầu xin.

Gã bị cảnh tượng ấy làm cho sợ hãi, mãi một lúc sau mới phản ứng lại là nên ngăn cản, thế nên gã nhào tới muốn ngăn làn roi của phụ hoàng lại, nhưng chiếc roi đó lại vút qua đôi tay gã, quất mạnh vào lưng gã.

Sức mạnh, tốc độ và cảm giác đau đớn đó đến bây giờ có thể gã vẫn còn nhớ như in.

Gã bị đánh ngã lăn ra đất, va mạnh vào người mẫu thân.

Phụ hoàng quay đầu nhìn thấy căn phòng chất đầy gỗ, càng giận dữ hơn: “Khắc khắc khắc, ngươi nhìn xem ngươi đã sinh ra cái giống quỷ gì, ngoài ngây người chỉ biết khắc gỗ, vô dụng hết chỗ nói, đứa nào cũng thế! Nếu ta có một đứa con giỏi giang, hôm nay đâu đến nỗi thất bại thế này!”.

Phụ hoàng giận dữ đùng đùng bước vào căn phòng đó, châm lửa đốt. Ánh lửa bốc cao rừng rực, phụ hoàng phất tay áo bỏ đi.

Gã sững sờ nhìn ánh lửa tuyệt đẹp nhảy múa, nhìn những khúc gỗ bị cắn xé vô tình trong ánh lửa, cảm thấy cả thế giới của mình cũng bị thiêu đốt từng chút từng chút một.

Thế nhưng, điều tồi tệ hơn là tiếng rên rỉ của mẫu thân trong lòng gã đã im bặt.

Gã đờ đẫn cúi đầu, nhìn thấy một nữ tử yếu đuối không còn hơi thở và nửa miếng tranh đường rơi trên mặt đất, đó là thân một con phượng hoàng, đầu phượng hoàng đã bị vỡ nát, đôi cánh nhuốm máu. Hai cảnh ấy đối chọi với nhau, khiến gã động phách kinh tâm…

Di Phi nhớ đến đây, mệt mỏi nhắm mắt lại.

Đó là chuyện xảy ra khi gã lên chín, bao nhiêu năm đã trôi qua, chưa có một ngày nào quên. Từ đó, gã thường xuyên mơ một giấc mơ, mơ thấy mẫu thân đang bay trên mặt nước, gã ở trên bờ gọi bà, nhưng bà lắc đầu không chịu lại gần.

Bà nói bà rất sợ đất liền, vì mặt đất vừa lạnh vừa cứng, khi roi quất xuống, thậm chí bà không có nơi nào để tránh. Nhưng nước thì khác, nếu như có roi đánh bà nữa, bà có thể lặn xuống dưới nước, như thế roi không thể đánh vào bà được.

Hết lần này đến lần khác gã mơ thấy bà, hết lần này đến lần khác đau đớn cầu xin, lại hết lần này đến lần khác bị chối từ.

Giấc mơ đó trở đi trở lại, gã nghĩ chắc chắn gã đã bị nguyền rủa, bởi vì gã chỉ mải chìm đắm trong thế giới của mình, cho nên, mới để mẫu thân thất vọng và đau lòng đến thế.

Năm mười tám tuổi, theo tổ huấn, gã có thể dọn ra khỏi cung, thế là gã chọn một mảnh đất ven hồ có một cây cổ thụ ngàn năm. Gã xây nhà trên cây, neo thuyền dưới nước, ra vào đều dùng ngựa xe, cố gắng hết sức không để hai chân của mình chạm xuống đất.

“Chủ nhân! Tiếp theo phải làm thế nào? Mau quyết định đi!”.

“Chủ nhân…”. “Chủ nhân…”.

Những tiếng kêu sốt ruột đó không ngừng vang lên.

Di Phi bỗng nhếch khóe miệng, khẽ cười một tiếng: “Giấc mộng lớn này…

cuối cùng cũng tỉnh rồi…”.

“Chủ nhân, người nói gì vậy”. Sơn Thủy, Tùng Trúc, Cầm Tửu đều vây quanh gã.

Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua gương mặt bọn họ, ba người này là tùy tùng của gã, là bảo tiêu của gã, cũng là bạn thân của gã. Chỉ có họ mới biết đêm đêm gã đều bị ác mộng vây khốn, biết nguyên nhân gã miệt mài luyện võ, càng biết được vì cái gì mà gã trăm mưu ngàn kế muốn làm hoàng đế.

Nếu như năm đó gã chịu luyện võ, có lẽ sẽ ngăn được đòn roi của phụ hoàng và mẫu thân cũng không chết.

Thứ gã ghét nhất chính là đất liền, vậy thì, biến toàn bộ đất liền thành của mình, nếu là của mình rồi, khi nằm mộng, gã có thể giơ hai tay ra, nói với mẫu thân: “Mẹ, mẹ có thể lên bờ rồi. Tất cả đất liền đều là của con, tất cả mọi người đều nghe theo mệnh lệnh của con, tất cả mọi người đều không đánh lại con, không còn roi có thể đánh mẹ, mẹ cũng không cần trốn trong phòng tối ăn đồ nữa, mẹ có thể quay về rồi”.

Ánh mắt Di Phi tối dần, chợt lóe sáng, rồi tất cả biến thành tịch liêu. Con xin lỗi mẹ, hình như con… thất bại rồi.

Cho nên, mẹ không thể quay về được… con xin lỗi.

Gã bỗng đứng dậy, đi ra phía ngoài khoang thuyền, tiện tay gỡ một miếng ngọc bội xuống, cắt đứt dây thừng, sau đó lại đạp một cái, tấm ván đột nhiên nứt toác, nước ào ào tràn vào.

Cầm Tửu cả kinh, kêu: “Chủ nhân, người định?”.

Di Phi quay đầu, khoanh tay cười với ba người: “Là anh hùng, đường cùng mạt lộ, duy chỉ có phá phủ trầm chu, phá sạch đường lùi quyết sống mái một phen thôi”.

Sơn Thủy và Tùng Trúc đưa mắt nhìn nhau.

Câu sau của Di Phi lại du dương lọt vào tai bọn họ: “Có điều rất đáng tiếc, từ xưa đến nay ta không phải là anh hùng, cho nên, ta phải trốn. Các người có bằng lòng theo một kẻ đường cùng ngõ cụt như ta lưu lạc chân trời không?”.

Ba người cơ hồ không hề do dự quỳ sụp xuống, đồng thanh đáp: “Chúng thuộc hạ nguyện đồng sinh cộng tử với chủ nhân!”.

“Rất tốt”. Di Phi phất tay áo, ngẩng đầu nhìn bầu trời, đã qua giờ Tí, một vầng trăng khuyết treo lơ lửng phía chân trời, lạnh lẽo thê lương vô hạn, đối lập với nó là ánh lửa sáng như ban ngày và tiếng giao chiến sục sôi bên ngoài tường cao của vương phủ.

Gã chăm chú nhìn ánh lửa nhảy nhót, tựa như ánh lửa trong ký ức tuổi thơ, nói rành rọt từng tiếng từng tiếng: “Khi ta chín tuổi, phụ hoàng dùng lửa thiêu thứ ta yêu quý nhất, mười năm sau, tiện nhân kia dùng lửa thiêu hoàng vị gần như đã là của ta… Không sao, Di Phi ta thề tại đây, mười năm sau, khi ta đặt chân lên đất Trình quốc, món nợ mà các ngươi nợ ta sẽ phải trả lại gấp mười, hai mươi lần, thậm chí gấp trăm lần!”.

Gã cởi áo khoác, lao xuống hồ trước tiên. Bọn Cầm Tửu cũng lần lượt nhảy theo.

Nước hồ lạnh như băng ào tới ước nhìn tưởng như rất nhẹ rất mềm, nhưng lúc này lại ép chặt trên từng bộ phận của cơ thể. Khi Di Phi men theo mật đạo dưới đáy hồ vội vàng trốn thoát không khỏi nghĩ đến một vấn đề thực ra không hề quan trọng cũng không chút liên quan: Ngày hôm đó, khi Ngu thị nhảy xuống nước tìm bông tai, liệu có chung cảm giác này không?

Trăng treo giữa trời, gió lạnh ù ù, mười dặm phố biến thành địa ngục.

Trung lang tướng Vân Địch đứng trên lầu cao, nhìn chiến trường phía dưới, sắc mặt đanh lạnh.

Họ đã dùng ba nghìn thiết giáp quân để mai phục Hàm Kỳ, tám mươi viên tùy tùng của Hàm Kỳ bị vây giết, chỉ còn lại chín người, mười người này bị đại quân bao vây, rành rành là cá nằm trên thớt, thế nhưng, hai canh giờ trôi qua, Tố kỳ quân hết người này đến người khác ngã xuống, còn mười người vẫn sừng sững không đổ.(2)

Đặc biệt là Hàm Kỳ, vẫn là áo giáp đỏ tươi như máu, trường đao lạnh sắc như nước, khi lưỡi đao vung lên hạ xuống, tất có người ngã xuống.

Cái danh Hồng Dực quả không phải hư truyền.

“Tướng quân, đánh mãi không thắng, phải làm sao?”. Quân sư lại gần Vân Địch, thấp giọng nói.

Vân Địch nhìn chằm chằm vào thân hình thấp bé mà tráng kiện đó, hồi lâu, làn môi mỏng khẽ hé, nói hai chữ: “Bắn tên”.

Tuy không thể bắt sống cũng hơi đáng tiếc, nhưng hắn đã không còn đủ nhẫn nại tiếp tục theo chiến đấu với gã chiến ma (Hàm Kỳ) tưởng chừng như không biết mệt mỏi đó.

Tay phải đang định chém xuống, lại có một giọng nói từ phía sau gấp gáp vang lên: “Dừng tay!”.

Vân Địch quay người, thấy thị vệ hai bên đều cúi người khấu lạy, người kia khoác áo lông, sắc mặt ửng đỏ đầy bệnh tật, vẻ mặt vừa giận dữ vừa lo lắng.

Không phải ai khác, đó chính là Lân Tố.

Vân Địch lập tức cúi người hành lễ: “Thuộc hạ tham kiến đại hoàng tử”.

Lân Tố tung cước, đá hắn ngã lăn ra, quát lớn: “Ai cho phép các ngươi bắn tên?”.

“Không thể bắt sống, mất bao thời giờ, quân ta càng lúc càng ít, cho nên…”, còn chưa dứt lời, lại bị một cước nữa. Vì Lân Tố đá quá mạnh, không kìm được ho húng hắng, vừa ho vừa nói: “Hắn là đệ đệ của bản vương, là đệ đệ ruột đó…

Ngươi… nếu các ngươi giết hắn, ta sẽ chém đầu các ngươi!”

“Nhưng công chúa có lệnh…”.

“Các ngươi nghe công chúa hay là nghe ta?”. Chúng tướng sĩ nhất thời im lặng.

Lân Tố chầm chậm thở ra, đi đến bên cửa sổ, nhìn khung cảnh chém giết phía dưới, không chịu được nhắm mắt lại, quay đầu nói: “Các ngươi phái người nói với hắn, chỉ cần hắn chịu quy thuận, không những không phải lo về tính mạng, còn có thể tiếp tục làm vương gia, hơn nữa…”.

Lời còn chưa nói hết, một cung tiễn thủ đứng bên một cửa sổ khác đã bắn tên, chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên lao đi như sao băng, không thiên không lệch, nhắm trúng yết hầu của Hàm Kỳ, Hàm Kỳ kêu lên một tiếng thảm thiết, từ trên ngựa ngã lăn ra đất.

Lân Tố trợn mắt trừng trừng, con ngựa của Hàm Kỳ bị kinh sợ, giẫm lên cơ thể Hàm Kỳ, trong nháy mắt máu thịt bầy nhầy máu tươi tung tóe, cảnh tượng hết sức ghê rợn. Lân Tố đờ đẫn hồi lâu mới tỉnh lại, nhìn chằm chằm cung tiễn thủ kia: “Ngươi… giết hắn?”.

Cung tiễn thủ vứt cây cung trong tay đi, quỳ sụp xuống: “Thuộc hạ là nghĩ cho điện hạ”.

Lân Tố bước nhanh lên phía trước, kéo cổ áo hắn, gằn giọng: “Ngươi, giết hắn!”.

Cung tiễn thủ đó không hề hoảng loạn, nhắc lại lần nữa: “Thuộc hạ vì điện hạ!”.

“Ngươi ngươi ngươi…”. Lân Tố nổi giận, rút thanh đao giắt bên người, nhằm người kia mà chém xuống, một đôi tay đột nhiên xuất hiện, nhẹ nhàng giữ y lại. Y không biết võ công, vì thế chỉ cảm thấy bả vai đau buốt, đại đao rơi keng xuống đất.

Lân Tố quay đầu lại, người cản y chính là Vân Địch.

“Vân Địch ngươi làm gì vậy?”.

Vân Địch lạnh nhạt đáp: “Điện hạ vất vả một đêm, nên quay về nghỉ ngơi rồi”.

“Cái gì?”. Lân Tố kinh ngạc.

Vân Địch cao giọng: “Hiện tại trong thành đại loạn, điện hạ thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không nên bị tổn hại mới phải. Người đâu, đưa điện hạ về cung!”.

“Đợi đã! Vân Địch, ngươi – ngươi – ngươi dám làm thế với ta”.

Vân Địch cười mỉm, nhưng trong nụ cười ẩn chứa sự lạnh lẽo tàn khốc: “Công chúa đang ở trong cung đợi điện hạ, có gì muốn nói, điện hạ có thể nói với người”. Nói đoạn khoát tay, mấy tên binh sĩ tiến lên, xốc Lân Tố kéo đi, suốt dọc đường chỉ nghe thấy tiếng kêu kinh ngạc, tiếng chửi mắng và tiếng ho không ngừng của y.

Quân sư cau mày hỏi: “Như thế có được không? Nói gì đi nữa, hắn cũng là hoàng tử, hiện giờ cũng là hoàng tử duy nhất đắc tội với hắn…”.

Vân Địch nhướn mày, “Quân sư sao thông minh một đời, hồ đồ nhất thời vậy, ngươi cho rằng, ở Trình quốc hiện nay, là ai làm chủ?”.

“Đương nhiên là công chúa, nhưng công chúa cũng chỉ là một nữ nhi…”.

Vân Địch cười lạnh: “Nữ nhi sao? Nữ nhi không thể gánh được chữ ‘vương’

sao?”.

Quân sư “a” một tiếng, như người tỉnh mộng, kinh ngạc bịt miệng lại.

Vân Địch nhìn thấy phía dưới, chín người vì Hàm Kỳ đã chết mà như rắn mất đầu, từng tên từng tên bị bắn chết, thong thả nói: “Mười năm mài một kiếm, sương đao nay đã thành. Công chúa, giờ đây nàng thắng lợi, phải chăng đã được giải thoát một chút rồi?”.

Dưới ánh trăng, vẻ mặt hắn bỗng trở nên ảm đạm, thương tiếc khôn tả, bi thương khôn tả.

“Mười năm… mười năm…”.

Lân Tố bị quân đội của mình bán đứng, cưỡng ép vương cung với danh nghĩa là bảo vệ mà kỳ thực là giam lỏng, đang chăm chú nhìn ánh trăng bên ngoài cửa sổ, thì thào.

Có cung nữ bưng lên mỹ tửu điểm tâm, đặt trên bàn cạnh rồi lại nhẹ nhàng nhón bước lui ra.

Y nhìn bình rượu có điêu khắc hình lưỡng xà tranh trong đáy mắt diễn ra một loạt thay đổi, có sợ hãi, có ngờ, có phẫn nộ, nhưng cuối cùng lắng đọng thành thương cảm.

Y từ từ đưa tay về phía bình rượu đó, ngón tay không ngừng run rẩy, chần chừ do dự, rõ ràng là một khoảng cách rất ngắn, nhưng mất thời gian nửa tuần nhang mới chạm tới bình rượu.

Thân bình khẽ nghiêng, mỹ tửu màu hổ phách mang theo hương thơm nồng được rót vào chén.

Y chăm chú nhìn chất lỏng trong chén, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc, cuối cùng y thở dài thườn thượt, nói: “Bỏ đi. Vua muốn thần chết, thần không thể không chết…”. Nói rồi, như lấy hết dũng khí, uống một hơi cạn chén rượu đó… Chén rượu sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình rơi cạch xuống đất, rơi mà không vỡ, thuận thế lăn mấy vòng, lăn đến bên chân một người.

Người đó nhẹ nhàng đi vào, chiếc váy dài thướt tha như nước quét trên mặt đất, bước chân của nàng khẽ khàng như hoa rơi.

Lân Tố tựa bên bàn, mơ mơ hồ hồ nhìn nàng, gương mặt nàng mông lung mông lung, có chút rõ ràng, lại có chút nhòe nhoẹt như thành một bức họa khác: Mười năm trước, khi thiếu nữ ấy từ ngoài cửa bước vào, cũng như thế này.

Từng bước từng bước, chậm rãi như thế.

Khi nàng cách y chỉ còn một bước, bỗng nhào tới ôm chặt lấy y, òa lên nức nở, nói: “Đại hoàng huynh! Đại hoàng huynh…”.

Mà lần này, người đó dừng cách y ba bước, không lại gần nữa, chỉ im lặng nhìn y, không nói nửa lời.

Thế nên y cười, cất tiếng: “Tất cả đều đúng như ước nguyện của muội phải không?”.

Người đó vẫn nhìn y, không nói.

Y cười càng lúc càng lớn, y vừa cười vừa ho: “Muội giết Hàm Kỳ, cũng giết Di Phi, đến cả phụ hoàng cũng trong tay muội, muốn sống muốn chết, chẳng qua cũng chỉ là một câu nói của muội. Tâm nguyện của muội đã thành hiện thực cả rồi? Bây giờ muội đến giết ta đúng không? Ôi không, ta quên mất, muội đã ban rượu độc cho ta, vậy thì, muội đến để nhìn ta chết phải không?”.

Người đó cụp mắt, lát sau, mới khẽ nói: “Di Phi trốn thoát rồi”.

“Sao cơ? Vậy thật là đáng tiếc… Nhưng không sao, một hoàng tử thất thế, cùng đường mạt lộ, sao có thể thoát khỏi sự truy đuổi của một người quyền bính trong tay, lòng dân hướng về như muội? Bắt hắn cũng chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi”.

“Đại hoàng huynh…”, người đó lên tiếng, cuối cùng đã bước qua khoảng cách ba bước cuối cùng, đến trước mặt y, sau đó từ từ ngồi xuống, ngả đầu trên đầu gối y.

Khi đầu nàng ngả lên đầu gối y, cùng lúc ấy, cơ thể vốn lạnh băng trở nên ấm áp hơn vì cảm nhận được nhiệt độ của đối phương, Lân Tố không kìm được bi ai nghĩ: Y rốt cuộc không thể nào ghét được người này, cho dù bị lợi dụng, bị phản bội, thậm chí bây giờ bị hạ độc, y đều không thể oán ghét người này. Đầu nàng ngả trên đùi y, một nơi đã chết trong tim bỗng giãy giụa sống trở lại.

“Di Thù… Di Thù… Di Thù ơi…”

Y chầm chậm đưa tay ra, chạm lên mái tóc nàng. Nàng có một mái tóc dài cực kỳ mềm mượt như tơ lụa mát lạnh, hệt như mười năm về trước.

“Muội xử trí phụ hoàng thế nào?”.

“Muội chặt đứt hai chân hai tay ông ta, móc mắt, cắt tai, cắt lưỡi ném vào ống sành, làm con người lợn”. Giọng nói của nàng rất khẽ rất dịu dàng, khi nói chuyện này, thậm chí còn không hề có chút lên giọng nào.

“Ta có thể cầu xin muội một việc không?”.

“Huynh muốn muội giết ông ta? Để ông ta mau chóng kết thúc đau khổ?”.

Di Thù cười ha ha, “Không thể được, huynh biết mà, tuyệt đối không thể”.

Lân Tố nhắm mắt lại.

Di Thù ngẩng đầu, ngước nhìn gương mặt y, khẽ nói: “Huynh thương ông ta? Đến bây giờ huynh vẫn thương ông ta?”.

Giọng Lân Tố dịu đi: “Rốt cuộc ông ấy vẫn là phụ thân của chúng ta”.

“Có phụ thân như ông ta sao?”. Di Thù bỗng trở nên kích động, tóm áo y, rít lên: “Hãy nghĩ xem ông ta đã làm những gì? Đã làm những gì đối với muội! Dã tâm bành trướng vọng tưởng thôn tính Yên quốc cũng đã đành, thực lực không bằng người ta, thua là chuyện bình thường, nhưng ông ta lại trút giận lên người bên cạnh, thế nên ông ta dùng roi đánh chết mẹ của Di Phi; mẫu thân của chúng ta cũng vì nói sai một câu mà bị đẩy vào lãnh cung, u uất mà chết; còn muội!

Còn muội!”. Tay nàng túm áo mình, run rẩy, nước mắt ào ra như suối: “Cái gì mà con gái được Trình vương sủng ái nhất, cái gì mà Di Thù công chúa dưới một người trên vạn người ở Trình quốc, những chuyện vẻ vang tột cùng mà người khác thấy đó, thực ra là tấm vải che đậy tội lỗi của ông ta! Ông ta… ông ta…!!”.

Lân Tố bỗng mở to mắt, nhìn chằm chằm muội muội cùng một mẹ sinh ra với y, hai giọt nước mắt trào khỏi vành mắt, lăn xuống theo gò má.

Trong khoảnh khắc, dường như quay trở lại mười năm trước đứa trẻ đó tột cùng hoảng sợ, nhục nhã, đau đớn không thiết sống lao vào ôm y, nức nở gào khóc, gào lên từng tiếng từng tiếng: “Đại hoàng huynh, đại hoàng huynh, muội phải làm sao? Muội phải làm sao?…”.

Gia đình đế vương, lắm chuyện xấu xa.

Mà họ chẳng qua là bất hạnh hơn người khác, có một người cha không bằng loài cầm thú.

Di Thù gạt lệ, gằn giọng nói: “Cho nên, những gì phải chịu bây giờ đều là đáng đời ông ta. Muội sẽ không để ông ta được chết nhanh chóng đâu, muội phải để ông ta sống, sống hết ngày này qua ngày khác, một ngày còn sống là một ngày chịu thêm giày vò”.

Lân Tố lại lần nữa nhắm mắt lại. Y cảm thấy rất mệt mỏi.

Y thật sự rất mệt. Cơ thể không còn chút sức lực, trong lòng cũng trăm ngàn vết thủng lỗ chỗ. Thật sự không muốn bận tâm đến bất cứ thứ gì nữa, cứ thế thiếp đi.

Nhưng, Di Thù lại giơ tay ôm lấy y, tựa đầu vào lồng ngực y, thì thầm: “Đại hoàng huynh… huynh hận muội ư? Đại hoàng huynh, đừng hận muội được không? Người muội thích nhất là huynh, chỉ có huynh mới có thể khiến muội tạm thời quên đi tất cả bất hạnh, chỉ có huynh mới toàn tâm toàn ý ủng hộ muội mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì, muội thích đại hoàng huynh nhất nhất nhất…”.

Lân Tố cười cay đắng: “Chẳng phải muội cũng thích Hàm Kỳ nhất sao?”.

Sắc mặt Di Thù thoắt biến đổi.

“Những lời như thế, muội đều nói với Hàm Kỳ và Di Phi rồi, đúng không?”. Di Thù ngẩng đầu, mặt không biểu cảm nhìn y.

Lân Tố không mở mắt, chỉ lạnh nhạt nói: “Nếu không, với sự vũ dũng nhường ấy của Hàm Kỳ, sự tinh ranh nhường ấy của Di Phi, sao có thể đều bại trong tay muội chứ?”.

“Đại hoàng huynh đang nói gì, muội nghe không hiểu”.

“Di Thù, ta biết muội bất hạnh, ta thực sự biết. Cho nên, muội oán hận, muội muốn báo thù, đều là chuyện nên làm. Thế nhưng, muội vì báo thù, mà để bản thân rơi vào vòng xoáy càng đáng sợ hơn, càng nhơ bẩn hơn. Chuyện này thực sự đáng sao?”.

Ánh mắt Di Thù trở nên sắc lẻm: “Hóa ra… huynh biết?”.

“Mỗi lần muội gặp một nam nhân có thể giúp muội là đều tìm cách lợi dụng triệt để, mà lần nào muội cũng dùng cơ thể của mình để trao đổi. Tướng lĩnh, chư hầu, thậm chí đến sứ thần nước khác, tỉ như Giang Vãn Y, muội cũng không bỏ qua”.

“Huynh đang nói muội là dâm phụ đúng không?”. Vẻ mặt Di Thù lạnh đi mấy phần, cười gằn nói: “Huynh có tư cách gì mà chỉ trích muội chứ? Lẽ nào huynh không lợi dụng muội? Rặt một phường lang sói, huynh…”.

“Không, ta chỉ cảm thấy bi ai…”, Lân Tố nhẹ nhàng ngắt lời nàng, “Những chuyện liên quan đến muội, thực ra ta đều biết, chỉ là không nói ra mà thôi. Bởi vì, mỗi một lần, mỗi một lần, đều chỉ khiến ta đau lòng. Phụ hoàng rốt cuộc đã hủy hoại muội đến thế nào, không những khiến muội sinh lòng oán hận, mà còn biến thành méo mó thế này. Di Thù, tại sao muội lại biến thành méo mó thế này?”.

Di Thù ngậm miệng, không nói nữa.

Lân Tố cuối cùng mở mắt ra, nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm, nói từng tiếng: “Di Thù, nếu thời gian có thể quay ngược lại mười năm trước, ta nhất định sẽ đi cứu muội, nhất định sẽ đi…”.

Di Thù im lặng hồi lâu, chầm chậm đứng lên, từ trên cao nhìn xuống y, khẽ nói: “Nhưng thời gian không thể quay ngược lại”.

Trong nháy mắt, gương mặt Lân Tố xám ngoét một màu chết chóc.

Di Thù quay người, mái tóc và chiếc váy đều bị gió thổi tung, nàng bước đi theo tiết tấu giống như lúc đến, từng bước từng bước rời đi.

Thân thể Lân Tố chầm chậm đổ xuống, hai dòng máu chảy ra từ mũi y, rỏ xuống chiếc áo trắng của y.

Chân trời đã hé những tia nắng ban mai đầu tiên. Khương Trầm Ngư lại một đêm mất ngủ.

Nàng ngồi trực cả đêm bên giường của Sư Tẩu.

Đêm qua, từ khi Di Thù công chúa xuất hiện đến cuối cùng khi công tử và Yên vương, Nghi vương thỏa thuận xong, nàng và Sư Tẩu liền được sắp xếp ở trong một gian phòng của khu nhà này.

Có lẽ đối với Lô Loan mà nói, đây cũng là nơi duy nhất an toàn.

Sau đó Giang Vãn Y và Phan Phương cũng xuất hiện, đêm đó sau khi đi khởi một lát Phan Phương đã liên lạc được với người của Cơ Anh, sau đó y đưa Giang Vãn Y cùng tới đây.

Giang Vãn Y băng bó lại vết thương cho Sư Tẩu, tuy chân tay bị chặt đứt không thể nối liền, nhưng ít nhất không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.

Khương Trầm Ngư bây giờ mới hơi an tâm, tựa bên giường mà ngủ thiếp đi.

Nhưng bên ngoài lại vọng tới đủ mọi loại âm thanh, nàng nghe không rõ, nhưng thực sự tồn tại, lại thêm ở nơi lạ lẫm, trên chiếc giường lạ lẫm, chiếc chăn mới mang theo một cảm giác thô nháp, cọ xát trên da, khó chịu đến mức khiến người ta bồn chồn.

Vì thế, khi đồng hồ cát chảy đến vạch giờ Dần, nàng không chịu nổi nữa, đứng dậy chải đầu qua loa, đẩy cửa, khoác áo đi ra ngoài.

Bên ngoài sương giăng dày đặc.

Mọi thứ trong màn sương đều mờ mờ mịt mịt, mông lung như mộng cảnh.

Trong sân, ven chân tường trồng rất nhiều hoa, giữa bụi hoa thấp thoáng một bóng người.

Nàng đến gần thì nhận ra, hóa ra là Tiết Thái. Lẽ nào hắn cũng cả đêm không ngủ?

Chỉ thấy Tiết Thái ngồi xổm trước một cây hoa rất đặc biệt, sắc hoa đỏ như máu, cánh hoa nhỏ dài khum khum như móng rồng, Trầm Ngư chưa từng nhìn thấy bao giờ, không kìm được tò mò hỏi: “Đây là hoa gì?”.

Tiết Thái nghe thấy giọng nói, quay đầu lại nhìn nàng một cái rồi mới đáp: “Mạn Châu Sa Hoa”.

A, đây chính là hoa Bỉ Ngạn được nhắc đến trong ‘Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh’ sao?”. Khương Trầm Ngư cũng ngồi xuống, vừa ngắm vừa nói: “Hoa Bỉ Ngạn, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa và lá chẳng bao giờ gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định sống chết. Đúng là một loại hoa đau thương…”.

“Phật nói bờ bên kia (Bỉ Ngạn), không sống không chết, không khổ không sầu, không muốn không cầu – Đã là như thế, sao còn bi ai?”. Tiết Thái khẽ nhếch khóe môi, có vẻ không đồng ý.

Khương Trầm Ngư nhìn hắn, bật cười.

Tiết Thái lạnh nhạt nói: “Ngươi cười cái gì?”.

“Ta đang nghĩ thực ra chúng ta rất có duyên phận, chẳng phải sao? Thân ở dị quốc xa xôi ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau”.

“Có lẽ người thực sự có duyên với ngươi là người khác mà không phải là ta?”.

Khương Trầm Ngư cau mày, đứa trẻ này đúng là không đáng yêu chút nào, nàng tìm hắn gợi chuyện cũ, hắn lại chuyên chọc ngoáy vào nỗi đau của nàng.

Thấy nàng thần sắc ủ rũ, Tiết Thái bỏ vẻ châm chích lạnh lùng, ánh mắt lướt qua gian phòng khách mà nàng vừa mới bước ra kia: “Người đó đã chết chưa?”

“Ngươi nói Sư Tẩu?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu, thần sắc lại rầu rĩ thêm mấy phần, “Tuy không chết, nhưng mà… đến khi hắn tỉnh lại, ta thật sự không biết phải đối diện với hắn như thế nào”.

“Con kiến còn ham sống, huống hồ con người. Cho dù thế nào, sống được vẫn tốt hơn là chết”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn hắn, chậm rãi nói: “Đối với ngươi cũng như thế phải không?”.

Tiết Thái lại cười lạnh lùng, ánh mắt lóe sáng không ngừng, cuối cùng nghiêng đầu, liếc nàng nói: “Chẳng phải ngươi rất thương hại ta sao?”.

Khương Trầm Ngư sững sờ.

“Đừng chối, mỗi lần ngươi nhìn thấy ta, trong ánh mắt đều ngập tràn sự thương xót, để lộ biểu cảm từ bi như Bồ Tát, lần trong hoàng cung Bích quốc và cả đêm qua cũng thế”.

Khương Trầm Ngư nói: “Đêm qua tối như thế, ngươi cũng có thể nhìn thấy biểu cảm của ta?”

“Là ta biết”. Tiết Thái hơi ngẩng đầu, ánh mắt đảo một vòng trên bầu trời, rồi lại rớt xuống gương mặt nàng, “Thế nhưng, ta cảm thấy so với một người vì không còn gì để mất, cho nên cũng không sợ hãi thứ gì như ta, người nào đó càng đáng thương hơn, càng nên cảm thấy đau buồn cho bản thân mình”.

“Người nào đó mà ngươi nói là ta?”. “Nếu không còn ai vào đây?”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy hứng thú, cười hỏi: “Sao ta lại đáng thương?”.

“Thiên kim của tể tướng, lá ngọc cành vàng, nhưng không thể gả được cho người mình yêu, vì lợi ích gia tộc mà buộc phải tiến cung, từ bỏ đứng đầu quần phi, phải chạy đến đảo quốc xa xôi ngàn dặm làm gián điệp, dọc đường nguy hiểm trùng trùng, phiền phức liên miên, đêm qua còn suýt mất cả cái mạng nhỏ. Ngươi nói xem, lẽ nào ngươi không đáng thương?”.

Khương Trầm Ngư nghe ra hắn có ẩn ý, lập tức ngưng cười, nghiêm mặt nói: “Ngươi biết đêm qua ai phát sát thủ truy sát ta?”.

Tiết Thái chớp chớp mắt, “Ngươi đoán xem”.

Cùng là chớp mắt, khi Hách Dịch chớp mắt luôn mang theo vẻ dịu dàng, Di Phi lại có vẻ giảo hoạt đặc thù, nhưng ở Tiết Thái lại biến thành sự linh hoạt và thanh tú khó tả thành lời có chút xấu tính, lại có chút trẻ con.

Là ai đi chăng nữa cũng không thể nổi giận với một đứa trẻ như thế, hơn nữa còn là một đứa trẻ xinh đẹp đến vậy, đáng thương đến vậy.

Khương Trầm Ngư cũng không thể, vì thế nàng chỉ có thể nói: “Ta đoán không ra”.

“Vậy thì ta sẽ tốt bụng dẫn ngươi đi xem nhé”. Tiết Thái quay người dẫn đường, “Đi theo ta”.

Khương Trầm Ngư đành đi theo. Đi vòng vèo quanh co hơi lâu, nhìn thấy một cổng vòm, Tiết Thái không đi thẳng qua cửa, mà đi sang bức tường thấp bên cạnh, dưới chân tường có chất mấy tảng đá, hắn giẫm lên trên, sau đó vẫy tay gọi nàng.

Tuy cảm thấy hành động này có hơi thất thố, nhưng không nén nổi tò mò, Khương Trầm Ngư cũng giẫm lên tảng đá, nhòm qua bên kia tường, vừa nhìn một cái, liền thở hắt ra một hơi lạnh.

Bên kia tường là một cái sân.

Trong sân không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là trên chiếc bàn đá bày la liệt sơn hào hải vị, sơn hào hải vị cũng không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là hai người ngồi bên bàn.

Một người áo xống xênh xang, như tiên trong núi; một người mày mắt thanh tú như hoa trong nước.

Không phải ai khác, chính là Cơ Anh và… Di Thù.

Hai người bọn họ tại sao lại ở cùng nhau? Hơn nữa còn vào lúc này?

Tiết Thái giật giật tay áo nàng, ra hiệu giữ im lặng. Khương Trầm Ngư cho dù có một bụng nghi hoặc cũng chỉ có thể kìm nén, im lặng quan sát.

Chỉ thấy Di Thù tự tay múc một bát canh, đưa đến trước mặt Cơ Anh, ngọt ngào cười nói: “Đây là canh Kim Phong Ngọc Lộ nổi tiếng nhất nước ta, đều dùng sương trên hoa buổi sớm, cùng với bảy bảy bốn mươi chín nguyên liệu quý hiếm nấu thành, ngọt mà không ngấy, tan liền trong miệng, lưỡi răng thơm lừng, dư vị đậm sâu. Hơn nữa, tốt nhất nên ăn vào buổi sáng, có thể giữ cho tinh thần sảng khoái cả ngày. Ngài nếm thử xem?”.

Cơ Anh đưa tay nhận lấy, lịch sự nhã nhặn đáp: “Đã nghe danh từ lâu, vậy thì Anh không khách sáo nữa”. Nói đoạn cầm thìa nếm một ngụm.

Di Thù hỏi: “Thế nào?”

Cơ Anh mỉm cười: “Công chúa nấu thật khéo”.

Di Thù “ha” một tiếng, vuốt tóc nói: “Sao ngài biết là ta nấu?”.

Cơ Anh buông bát canh xuống, “Công chúa muốn đáp tạ ta, đương nhiên sẽ dùng món quà quý trọng nhất, canh Kim Phong Ngọc Lộ lại là bí mật của hoàng thất Trình quốc, người khác xưa nay không có phúc được hưởng, huống hồ còn là canh do công chúa đích thân nấu”.

Di Thù che miệng cười: “Từ lâu đã nghe nói tài ăn nói của công tử thiên hạ vô song, khi sắc bén thì như dao sắc, khi vi diệu lại như thổi khói giữa sương, mà khi dịu dàng, càng say đắm lòng người hơn cả gió xuân…”.

Cơ Anh cười nhạt.



Di Thù bỗng dựa sát chàng thêm, giọng nói buông thật khẽ thật ngọt ngào: “Thế nhưng, sở dĩ ta nấu món canh này cho công tử, thực ra còn có ý tứ khác nữa…”.

Cơ Anh nhướn mày.

“Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số”

(Gió vàng móc ngọc một gặp nhau, Hơn biết mấy người đời gần gụi) (3) . Di Thù vừa thân mật nói vừa khẽ chọc ngón tay lên ngực Cơ Anh.

Đầu óc Khương Trầm Ngư lập tức trở nên trống rỗng.

Nàng làm sao có thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy cảnh tượng này, chẳng trách khi Tiết Thái chớp mắt, lộ rõ vẻ cổ quái xấu xa. Hắn cố ý! Hắn biết ở đây sẽ diễn ra màn kịch như thế nào, cũng biết màn kịch này làm tổn thương nàng nhất, cho nên cố ý dẫn nàng đến!

Quá… quá… thật quá đáng…

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, định quay người bỏ đi, liền bị Tiết Thái giữ chặt lại, nàng trợn mắt gườm Tiết Thái, Tiết Thái lắc đầu với nàng, ánh mắt bảo nàng đừng nóng vội.

Khương Trầm Ngư vừa giận vừa tức, lại sợ gây ra tiếng động khiến đối phương phát giác, đành tiếp tục đứng xem. Trong lòng như bị thứ gì đó lăn qua, vì không thể vỡ hẳn ra, cho nên dính với nhau nhơm nhớp.

Mà bên kia, Cơ Anh không hề đẩy Di Thù ra, chỉ nhìn xuống vạt áo của mình theo ngón tay nàng ta, một lát sau mới nhướn mày, cười hỏi: “Công chúa đã biết câu này, đương nhiên cũng nên biết một câu khác”.

“Một câu khác gì?”.

“Nhân các hữu ngẫu, Tề đại, phi ngô ngẫu dã”(4).

Di Thù giận dỗi nói: “Hóa ra công tử chê người ta, ta không chịu, ta không chịu…”, nói rồi, giơ nắm tay trắng trẻo lên khẽ đập lên người chàng.

Cơ Anh nắm lấy tay Di Thù, thở dài nói: “Ngày mai công chúa sẽ là quân vương Trình quốc, e là không còn thời gian mà hờn giận như thế nữa”.

Di Thù ngưng cười, nhìn chàng chằm chằm, ánh mắt thâm trầm, “Công tử…

thực sự không cần ta báo đáp?”.

Cơ Anh nghiêm mặt đáp: “Những điều công chúa báo đáp ta đã viết đủ nhiều trên quốc thư rồi”.

Di Thù cắn môi, hạ giọng nói: “Chàng… không thích ta sao?”.

“Ta rất thích công chúa”, Cơ Anh nói, từ nắm tay đổi thành dắt tay nàng ta, “giống như thích một đứa trẻ kiên cường đứng dậy bước tiếp trong gian khó, mất mát rất nhiều, từ bỏ rất nhiều, phản bội rất nhiều, nhưng trước sau vẫn không hối hận”.

Di Thù im lặng, rất lâu sau mới chầm chậm rút tay khỏi tay chàng, đồng thời cũng tách ra khỏi chàng. Khương Trầm Ngư xem đến đây, tảng đá nặng trịch trong lồng ngực mới miễn cưỡng hạ xuống và một cảm giác rất vi diệu theo đó dâng trào.

Trước đó, khi Di Thù khêu gợi Cơ Anh, nàng chỉ cảm thấy giận dữ, nhưng nhìn thấy Di Thù bị Cơ Anh cự tuyệt xong, sự giận dữ đó liền chuyển thành cảm khái – Công tử khi từ chối người khác vẫn luôn dịu dàng như thế.

Dịu dàng đến mức khiến người ta đau lòng.

Di Thù quay người lại, chăm chú nhìn ánh mặt trời mỏng manh xuyên qua màn sương trắng, chậm rãi nói: “Ta cũng thích công tử. Bởi vì, công tử là nam nhân duy nhất giúp ta, nhưng không hề nhân cơ hội lợi dụng ta, cho dù ta thực sự cam tâm tình nguyện”.

Cơ Anh dịu dàng đáp: “Công chúa sắp là Trình vương, chỉ cần nàng muốn, không có nam nhân nào có thể lợi dụng nàng”.

Di Thù buồn bã mỉm cười: “Kéo một nam nhân lên giường thì dễ, nhưng muốn đuổi họ xuống thì quá khó”.

Cơ Anh im lặng một hồi, mới nói: “Nàng là Trình vương”.

Vì bốn chữ này, đôi mắt Di Thù lại lần nữa tỏa sáng, nhắc lại một lần thật chậm, thật chậm: “Ta – là – Trình – vương”.

Di Thù hít một hơi thật sâu, cao giọng nói: “Không sai! Công tử nói đúng, từ ngày hôm nay trở đi, ở Trình quốc, ta chính là người đứng trên vạn người, không ở dưới ai, không ai có thể tùy ý trêu đùa sự tôn nghiêm của ta, nắm giữ vận mệnh của ta! Ta là Trình vương”.

Cơ Anh mỉm cười với Di Thù. Nụ cười đó còn ấm áp hơn cả ánh dương.

Ánh mắt Di Thù trầm xuống, lại nhìn chàng chằm chằm hồi lâu, rồi nhướn mày nói: “Công tử thực sự không muốn ta báo đáp công tử trên giường?”.

Khóe mắt Cơ Anh run run.

Thế là Di Thù bắt đầu cười ha ha(5): “Đùa công tử thôi, công tử chính là Liễu Hạ Huệ chính nhân quân tử của ta! Được rồi, ta lại giới thiệu với công tử mấy món ăn nữa nhé? Qua thôn này, sẽ không còn quán này nữa(6) đâu, sau này sẽ không còn cơ hội bắt quân vương Trình quốc xuống bếp vì ngài đâu…”. Nói đoạn, cầm chiếc thìa lên bắt đầu xúc những món ăn khác.

Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, nhẹ nhõm thở nhẹ một hơi.

Tiết Thái lập tức quay đầu lại, nhìn nàng bằng đôi mắt đen lay láy, lạnh lùng nói: “Tật xấu của ngươi lại bắt đầu rồi đấy”.

“Hả?”. Thế là có ý gì?

“Sự thương hại của ngươi lại bắt đầu dâng trào phải không? Ngươi rất thương hại ả công chúa kia sao?”.

“Cô ta bị phụ vương mình… lại nhập nhèm với mấy vị ca ca, kỳ thực rất đáng thương…”.

“Xem kìa, lại bắt đầu diễn vai Bồ Tát rồi”, Tiết Thái tặc lưỡi nói.

Khương Trầm Ngư không khỏi xấu hổ, hỏi: “Tại sao ngươi lại cười ta? Lẽ nào ta không thể thương hại cô ta?”.

“Đương nhiên không thể”. Tiết Thái nghiêm mặt, ánh mắt trở nên vừa thâm trầm vừa lạnh lùng, “Bởi vì, kẻ sai sát thủ giết ngươi chính là vị công chúa Trình quốc đáng thương đáng được đồng tình này”.

Sét đánh giữa trời quang, đánh thẳng vào trái tim Khương Trầm Ngư như thế.

Giả sơn, bàn đá, sơn hào hải vị… hết thảy trước mắt bỗng nhòa đi, chỉ còn lại áo trắng tóc đen của công tử là rõ ràng biết mấy.

Là Di Thù sai người giết nàng?

Là Di Thù sai người giết nàng?

Phút giây này, điều Khương Trầm Ngư nghĩ không phải là tại sao Di Thù phải sai người giết nàng, mà là – Di Thù muốn giết nàng, công tử lại giúp Di Thù!

Công tử biết rõ!

Đến Tiết Thái cũng biết, làm sao công tử có thể không hay?

Chàng biết, chàng biết, chàng biết!

Mà chàng, bây giờ, đang nhàn nhã ngồi bên bàn, dịu dàng nhìn Di Thù, nói chuyện với ả, mỉm cười với ả.

Thậm chí chàng còn giúp ả trở thành nữ đế của Trình quốc!

Làm sao nàng chịu nổi?

Những chữ này lờ mờ nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, trong nháy mắt, lệ sa từng hàng, không rõ nguyên nhân, không có lý do, đáng sợ mà chua xót.

“Ta… thực sự là kẻ không quan trọng đến vậy…”. Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm, muốn cười nhưng không sao cười nổi.

Đúng lúc đó, một tên thị vệ vội vã bước vào, ghé tai Di Thù nói gì đó, Di Thù gật đầu, quay người cười nói: “Ta phải đi rồi”.

Cơ Anh đứng dậy, đáp: “Nội loạn mới yên, công chúa đương nhiên có nhiều việc cần xử lý, là Anh đã quấy rầy. Công chúa cứ tự nhiên”.

Di Thù nhìn chàng đăm đăm, “Đại ân không lời nào cảm tạ hết được”.

Cơ Anh không nói gì thêm nữa, chỉ chắp tay hành lễ.

Di Thù theo sau tên thị vệ kia rảo bước rời đi.

Cơ Anh bấy giờ mới chầm chậm ngồi xuống chiếc đôn đá, khẽ thở dài, nói: “Các ngươi có thể ra được rồi”.

Tiết Thái kéo tay Khương Trầm Ngư, nàng vẫn bàng hoàng, đờ đẫn theo hắn bước qua cửa vòm.

Ánh mắt Cơ Anh tựa như một cơn gió mát lướt qua mặt hồ đậu lại trên gương mặt nàng.

Khuôn mặt của Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết.

Cơ Anh nhìn Tiết Thái thoáng vẻ trách móc, cất tiếng: “Khương tiểu thư…”.

Khương Trầm Ngư đột ngột ngắt lời chàng: “Tại sao Di Thù muốn giết tiểu nữ?”.

Làn môi Cơ Anh run run giây lát, nhưng chàng không trả lời.

Tiết Thái đáp thay chàng: “Rất đơn giản. Bởi vì nữ nhân đó không chịu được nữ nhân khác được yêu thích hơn mình mà thôi”.

Khương Trầm Ngư không nhìn hắn, chỉ dán mắt vào Cơ Anh, khẽ hỏi: “Là như thế sao?”.

Tiết Thái lại trả lời thay: “Ngươi có biết, nửa tháng nay, nữ nhân nổi bật nhất ở Trình quốc là ai không?”. Không đợi Khương Trầm Ngư trả lời, hắn tự nói tiếp: “Là ngươi, chính là ngươi. A Ngu cô nương. Ngươi là sư muội của Đông Bích hầu, ngươi xin hắn cái gì liền được cái nấy, ngươi cứu tính mệnh của Nghi vương, khiến Nghi vương thần hồn điên đảo vì ngươi; ngươi còn chỉ dùng một khúc nhạc mà khiến Yên vương cảm phục, vì thế có được danh cầm và cầm phổ tuyệt thế; ngươi bị hôn mê, quan viên khắp triều lũ lượt tặng quà; một đêm ngươi không về, Nghi vương đích thân đến vương phủ đòi người; không chỉ như thế, ngươi còn khiến ba vị hoàng tử hoặc nhiều hoặc ít đều đối xử với ngươi khác người bình thường… Mà những nam nhân này đều là người mà Di Thù lợi dụng, hoặc là có ý đồ muốn lợi dụng, ngươi cảm thấy cô ta không có lý do gì để giết ngươi sao?”.

Khương Trầm Ngư vẫn đứng bất động, trên gương mặt không chút biểu cảm, nhưng rèm mi nhướn dần lên, để lộ đôi đồng tử bên trong, sâu thẳm như ngọc đen huyền, “Đó… đều không phải là lỗi của ta”.

Nụ cười của Tiết Thái vì câu nói này mà biến mất trong nháy mắt.

Khương Trầm Ngư nhìn thẳng Cơ Anh, nói từng chữ rành rọt: “Đây không phải là lỗi của ta… Không phải! Không phải là lỗi của ta!”. Nàng bỗng giơ tay, gạt đám bát đĩa trên mặt bàn xuống đất, loảng xoảng loảng xoảng, hết thảy đều vỡ vụn. Đến bát canh Kim Phong Ngọc Lộ đó cũng chảy lênh láng ra đất.

Tiết Thái chưa bao giờ thấy nàng kích động như thế, không khỏi biến sắc, có chút bất ngờ, cũng có chút chấn động.

Ánh mắt Trầm Ngư sắc lẹm như một lưỡi dao, nhìn mọi thứ ngổn ngang trên mặt đất, cười nhạt, nói: “Thật nực cười! Lý do này! Vì lý do này, sai sát thủ đến lấy mạng ta, khiến ta suýt chút nữa chết nơi đất khách, không thể gặp lại người thân, còn hại Sư Tẩu tàn phế suốt đời, vĩnh viễn mất đi một cánh tay, một con mắt và đôi chân, thật nực cười! Thật nực cười!”.

“Trầm Ngư”. Cơ Anh khẽ gọi một tiếng.

Cả người Khương Trầm Ngư run bắn, sau đó bình tĩnh trở lại. Nhưng đôi mắt trở nên bi thương khôn xiết. Nàng chăm chú nhìn chàng, dùng giọng nói còn nhạt hơn gió thoảng hỏi: “Công tử, tại sao ngài giúp ả?… Tại sao?”.

Tại sao phải giúp Di Thù.

Thực ra, vấn đề này đêm qua Cơ Anh đã nói rồi.

Khi chiếc ghế nhô cao, Di Thù từ trong cơ quan bước ra, Nghi vương và Yên vương đều ngạc nhiên, mà chính lúc đó, Cơ Anh lên tiếng, nói ra câu then chốt nhất: “Ta xin các vị lên tiếng ủng hộ công chúa xưng đế vì ba lý do”.

“Thứ nhất loạn ở Trình quốc, đối với ba nước không phải là may mắn, mà là tai họa. Cuộc hỗn chiến bốn nước mười năm về trước đã mang lại tổn thất vô cùng to lớn cho các nước, mười năm nay, chúng ta nghỉ ngơi an dưỡng, khó khăn lắm mới có chút khởi sắc, hiện giờ nên là một giai đoạn chấn hưng tiếp tục đi lên, đối với các nước mà nói, đều yên tĩnh không nên động. Nghi vương bệ hạ, nếu Trình quốc cứ chiến loạn mãi thế này, con dân của ngài sẽ tiếp tục buôn bán làm sao? Phải biết rằng, trong thời gian chiến loạn, chỉ có một thứ có thể hái ra tiền, đó chính là vũ khí. Nhưng vô cùng không may là vũ khí không phải là sở trường của Nghi quốc, mà là sở trường của Trình quốc. Đối với vương bệ hạ, một khi Trình loạn bắt đầu, bách tính tha phương cầu thực, tất sẽ ồ ạt di dời, đến lúc đó, nạn dân đàn bà trẻ con người già kẻ tàn tật hết thảy đều chạy đến Yên quốc, đuổi đi thì thất đức, giữ lại thì sinh hậu họa, đối với ngài mà nói, cũng là một phiền phức to lớn, đúng không?”.

“Thứ hai, Trình quốc hiện tại, ai là người lòng quân hướng về? Hàm Kỳ?

Không sai, y là danh tướng. Nhưng đồng thời y cũng là một hoàng tử cao ngạo, tính tình nóng vội bạo ngược, người sùng bái nhiều, nhưng người bất mãn y còn nhiều hơn. Y cay nghiệt thiếu đức, lại tự cho là mình giỏi, không coi những tướng sĩ xuất thân nghèo hèn ra gì, vì thế, quân đội của y tuy quân kỷ nghiêm minh, nhưng cũng bị người ta căm ghét. Còn Di Phi? Y là một kẻ thông minh, đáng tiếc có chút mưu lược nhưng không có tài năng của đại tướng quân Lân Tố? Đối với đất nước sùng võ như Trình quốc mà nói, y hoàn toàn là một kẻ bỏ đi! Cho nên, ai là người lòng quân hướng về? Đáp án chỉ có một – công chúa.

Công chúa xuất thân cao quý, lễ hiền đãi sĩ, binh không phân quý tiện, đối xử công bằng, hơn nữa, văn tài võ học thứ nào cũng là cao thủ. Có thể nói, ở Trình quốc, nàng là độc nhất vô nhị”.

“Thứ ba, Trình quốc hiện giờ, ai là người lòng dân hướng về?

Mọi người đều biết, người Trình vương sủng ái là công chúa, người bách quan thần phục là công chúa, người con dân yêu mến là công chúa. Là công chúa, chứ không phải các huynh trưởng của nàng”.

Khi Cơ Anh nói xong, căn phòng chìm trong im lặng.

Rất lâu sau, Hách Dịch mới lên tiếng phá vỡ sự yên tĩnh: “Những gì ngài nói đều rất lọt tai, nhưng chớ có quên, Di Thù xưng đế, có một khiếm khuyết lớn nhất, mà khiếm khuyết này đủ để xóa tan hết thảy ưu điểm của nàng”.

Chương Hoa tiếp lời: “Bởi vì nàng là nữ nhi”.

Hách Dịch nói: “Không sai. Nữ nhi xưng đế, không có tiền lệ. Cứ coi như ngài có thể thuyết phục hai người bọn ta, nhưng làm thế nào để thuyết phục thiên hạ?”.

Cơ Anh khẽ cười: “Nữ nhi xưng đế, không có tiên lệ. Vậy giải thích thế nào về truyền thuyết Nữ Oa tạo người? Tại sao lại có thuyết Cung Công thị và Nữ Oa tranh ngôi đế? Tại sao lại có truyền thuyết Nữ Oa vá trời?”.

“Đó là truyền thuyết”.

“Không sai, đó là truyền thuyết”. Cơ Anh trầm giọng nói: “Thế nhưng ai có thể nói, bây giờ không thể lại dựng lên một truyền thuyết nữa? Nếu một nữ tử là huyết mạch hoàng tộc duy nhất còn sót lại, năng lực tài hoa đều cao hơn người khác, tại sao nàng không thể xưng đế? Điều quan trọng nhất là có được sự ủng hộ của ba vị quân chủ, sao nàng không thể xưng đế được đây? Chớ quên rằng, ba vị bệ hạ mới là chủ tể của thiên hạ hiện nay”.

Căn phòng lại lần nữa chìm trong sự im lặng.

Hồi lâu Hách Dịch và Chương Hoa đều không nói gì, rõ ràng là đang đấu tranh tâm lý hết sức phức tạp.

Lúc này, nếu không thể thúc đẩy, rất có thể thuyền lội ngược dòng, sẽ không tiến mà lùi.

Thế là Cơ Anh thở dài, khẽ nói: “Công chúa, hãy nói cho hai vị bệ hạ, tại sao nàng buộc phải xưng đế?”.

Di Thù trước sau vẫn giữ nụ cười mỉm, nửa lời không nói, sau khi nghe thấy câu này, liền đi về trước mấy bước. Mấy tên thị vệ bước vào, khiêng tấm bình phong trước mặt Nghi vương và Yên vương đi, sau đó lui ra, đóng kín toàn bộ cửa ra vào, cửa sổ.

Trong phòng vẫn chỉ có một ngọn đèn cô lẻ, bóng sáng loang lổ chiếu sáng cả phòng. Mà trong quầng sáng đó, người sáng rõ nhất chính là Di Thù, nàng ta tắm mình trong ánh sáng vàng vọt, đưa tay ra, nhẹ nhàng cởi thắt lưng, trút bỏ chiếc áo khoác ngoài.

Hách Dịch và Chương Hoa đều biến sắc.

Điều khiến họ kinh ngạc không phải là hành vi to gan dám cởi áo trước mặt mọi người của Di Thù, mà là sau khi nàng ta trút xiêm y, trên bờ vai và bầu ngực để trần đều chi chít những vết sẹo.

Tròn có, méo có, dài có, ngắn có, sâu có, nông có, từng đường từng vết giống như những con côn trùng bò lổm ngổm trên người nàng ta, lại thêm nước da trắng nõn nà, cho nên trông càng chấn động.

Hách Dịch đứng lên trước tiên, kinh ngạc hỏi: “Là ai làm?”.

Di Thù mặt lạnh lùng, đáp: “Phụ vương”.

“Cái gì? Trình vương”, bấy giờ, đến Chương Hoa cũng không ngồi yên nổi nữa. Như Ý sửng sốt kêu lên: “Công chúa không phải là con gái được sủng ái nhất của ông ta sao?”.

Di Thù nhếch mép cười nhạt: “Không sai, chính là ta. Hơn nữa, những vết sẹo này đều là bằng chứng cho sự sủng ái của ông ta với ta”.

Hách Dịch và Chương Hoa nhìn nhau, thần sắc phức tạp.

Cơ Anh nói: “Con người Minh Cung không bằng loài cầm thú, đến con gái ruột của mình cũng không tha, công chúa đã bị hắn lăng nhục từ năm bảy tuổi đến tận bây giờ, không thể nào tỏ bày với người ngoài. Chư vị, cho dù không vì thời cuộc chỉnh sự, đối với một cô gái yếu đuối như thế này, hai vị thân là nam tử, lẽ nào sẽ khoanh tay bàng quan?”.

Khi ấy Khương Trầm Ngư đứng ở một bên, quan sát từ đầu đến cuối, trong lòng rúng động, không lời nào tả xiết.

Không thể không nói, chiêu này thực sự quá tuyệt diệu. Đặc biệt là trước đó Di Thù luôn ẩn nấp, khi nàng ta xuất hiện, việc đầu tiên nàng ta làm chính là thoát y. Hai tầng kích thích thị giác và tư duy, khiến bầu không khí trong phòng hoàn toàn biến đổi. Nàng dường như có thể cảm thấy một thứ gọi là “thương xót” bắt đầu lan tỏa ra xung quanh, một nữ nhân như nàng nhìn thấy đã như vậy, huống hồ là những nam nhân này, những nam nhân nắm trọng quyền trong tay, có khả năng tối thượng, vì thế cũng luôn có ý thức trên mình gánh vác sứ mệnh và trách nhiệm.

Ánh đèn chiếu trên người Di Thù, đôi mắt cụp xuống, tư thế yểu điệu của nàng ta đều làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ của nàng ta, mà nàng ta càng đẹp, những vết sẹo trên cơ thể lại càng rõ ràng, lại càng đáng thương.

Khương Trầm Ngư không nghĩ ra được, còn có thứ gì có thể chống đỡ được sức mạnh to của vẻ đẹp và sự yếu đuối này cộng sinh ra.

Và kết quả cũng đúng như suy đoán, Chương Hoa và Hách Dịch sau một hồi lâu chấn động, cuối cùng đã đồng ý với yêu cầu của Cơ Anh – dùng thế lực ba nước, phù trợ Di Thù xưng đế.

Không sai, đó chính là toàn bộ quá trình sự việc đã xảy ra trong căn phòng nhỏ tối hôm qua. Cơ Anh lợi dụng vốn liếng nguyên thủy nhất của một nữ nhân, lay động hai vị đế vương, giành được thắng lợi.

Thế nhưng, tất cả thực sự như những lời chàng nói tối qua sao?

Khương Trầm Ngư nhìn nam tử quan trọng nhất đời mình, nhắc lại câu hỏi lần nữa bằng một giọng nói tuyệt vọng, bi ai khôn xiết: “Công tử, tại sao công tử phải giúp ả…?”.

Cơ Anh im lặng, Tiết Thái nhìn Khương Trầm Ngư rồi lại nhìn chàng, tiến lên phía trước một bước định nói, Cơ Anh lắc đầu với hắn, Tiết Thái lại lùi xuống.

Bấy giờ Cơ Anh mới ngước mắt, nhìn trả Khương Trầm Ngư, giọng nói nhẹ nhàng: “Trầm Ngư”.

Đây là lần thứ hai chàng trực tiếp gọi tên nàng mà không giống như trước đó, luôn chỉ là “tiểu thư”.

Khương Trầm Ngư không kìm được đau đớn nghĩ, công tử thật giảo hoạt, rõ làng biết nàng không có sức kháng cự với cách gọi này, cho nên luôn sử dụng trong những thời khắc then chốt như bây giờ để nàng không thể giận dữ, không thể tức tối, không thể oán hận. Quá giảo hoạt, công tử quá giảo hoạt…

Thế nhưng, tại sao rành rành biết là công tử giảo hoạt như thế, nhưng chỉ cần nghe thấy chàng dùng giọng điệu dịu dàng đó nói ra hai từ này, tất cả những cảm xúc tiêu cực đều tan chảy, đều biến mất như mây khói, không thể kiên cường tiếp được?

Tình yêu hèn mọn đến vậy, thật khiến lòng tự tôn của nàng khó mà chấp nhận nổi.

Thế nhưng cho dù khó chịu như thế, vẫn không nỡ từ bỏ.

Khương Trầm Ngư bất giác hít sâu một hơi rồi lại thở ra, sau đó nhìn Cơ Anh, thấp giọng nói: “Tiểu nữ đang nghe”.

Cơ Anh đứng dậy, từ từ đi đến trước mặt nàng, khoảng cách giữa hai người gần trong gang tấc. Chàng giữ khoảng cách gần như vậy, hơi cúi đầu xuống, nhìn nàng, nói hai từ: “Năm năm”.

Khương Trầm Ngư ngẩn người.

Cho ta thời gian năm năm, cho Di Thù thời gian năm năm, cũng cho bản thân thời gian năm năm. Nếu như nàng thực sự phẫn nộ, oán hận, vậy thì, hãy dùng thời gian năm năm để mưu tính đòn phản kích của nàng đi”.

Khương Trầm Ngư mở to mắt, lúc này, nàng hoàn toàn bị chấn động.

Cơ Anh đưa tay ra, khẽ nắm lấy tay nàng, cùng với bàn tay trở nên ấm áp, trái tim dường như cũng ấm lên Khương Trầm Ngư không làm được hỏi: “Ý của công tử là?”.

“Di Thù người này, tuy phận mỏng duyên ôi, gặp phải cảnh bất hạnh mà những người bình thường không thể nào tưởng tượng nổi, từ một mặt nào đó mà nói, nàng ta quả thực đáng thương, nhưng từ một mặt khác, nàng ta lòng dạ sâu xa, thâm hiểm buông thả, để đạt được mục đích mà không từ thủ đoạn không thêm kiêng dè bất cứ đạo đức pháp luật nào. Nàng ta không hề nợ nần gì ta, cho nên xét về lợi ích của Bích quốc nâng đỡ nàng ta xưng đế là lựa chọn tốt nhất của ta; nhưng nàng ta lại thực sự có thâm thù đại hận với nàng, nàng muốn báo thù cũng không có gì đáng trách”.

Khương Trầm Ngư vẫn nhìn chàng không chớp mắt.

Cơ Anh nhìn dáng vẻ này của nàng, đành nói rõ ràng hơn một chút: “Nói thế này đi, sở dĩ ta chọn lựa nàng ta làm Trình vương, ngoài ba nguyên nhân lớn đã nói tối qua, còn có một lý do lớn nhất: Nàng ta là nữ nhân”.

Khương Trầm Ngư khẽ nghiêng đầu.

“Nữ nhân xưng đế, trách nhiệm cần gánh vác càng nặng nề hơn, dĩ nhiên, độ khó cũng càng lớn hơn, nếu có thể thái bình không xảy ra chuyện gì, đó là vạn hạnh, nhưng, một khi xảy ra chút sai sót, đủ để nghìn người bàn tán, vạn người phỉ nhổ. Trình quốc tuy là cô đảo giữa biển, đất đai nghèo nàn, vật chất thiếu thốn, nhưng họ có kỹ thuật hạng nhất, mà những thứ bảo bối có thể quyết định thắng bại trong thời chiến loạn cũng có thể tạo được lợi nhuận vô cùng lớn trong thời bình mới là thứ thánh thượng thực sự muốn có được. Cho nên, nếu ta đoán không nhầm, năm năm, năm năm nữa, đợi đến khi Bích quốc chuẩn bị chu toàn, thánh thượng tất sẽ khai đao với Trình quốc, mà đến khi đó, đối với chúng ta mà nói, còn có lý do nào tiện lợi hơn lý do nữ tử chấp chính?”. Cơ Anh nói đến đây, cười cười, nụ cười vô cùng phức tạp, rất khó nói rõ rốt cuộc chàng nhìn nhận và xử lý sự việc này với tâm trạng nào, duy nhất có một điều rõ ràng là đó tuyệt đối không phải vui vẻ, “Hơn nữa, có quá nhiều, quá nhiều điều có thể chỉ trích và thóa mạ nữ nhân này…”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình tựa như cụm bèo trôi dạt trên mặt nước, vì không thể chìm xuống, cũng không thể lên bờ, cho nên vô cùng bấp bênh. Thực ra nàng không phải không biết đạo lý bên trong, kinh qua nhiều ngày rèn rũa như vậy, nàng không còn đơn thuần cho rằng chính trị có thể trong sạch, phía dưới bất kỳ ngọn cờ huy hoàng “trừ bạo giúp yếu” nào, khó có thể ghi chép được hết những hành vi xấu xa dơ bẩn. Thế nhưng, lờ mờ đoán được và thực sự nghe thấy lại là hai việc khác nhau hoàn toàn.

Lúc biết người phái sát thủ truy sát mình, người hại Sư Tẩu thê thảm đến thế chính là Di Thù, nàng rất phẫn nộ, nhưng bây giờ nghe Cơ Anh nói rõ nguyên nhân thực sự chàng giúp Di Thù, nàng cũng không vui nổi. Nàng không biết mình buồn vì điều gì, có lẽ là vì Di Thù, có lẽ là vì Cơ Anh, càng có lẽ là vì chính mình.

Tại sao đời người lại không thể sống đơn thuần một chút?

Tại sao phải tính tính toán toán, không đối xử thật lòng với ai như vậy?

Giống như Cơ Anh lúc này, chàng nắm tay nàng, vô cùng thành khẩn giải thích mọi chuyện với nàng, có lẽ nguyên nhân lớn nhất không phải vì chàng thích nàng, thương xót nàng, mà là vì họ đứng trên cùng một chiến tuyến.

Vậy thì, có phải nếu một ngày nào đó, khi nàng và chàng không cùng chiến tuyến, công tử sẽ dùng toàn bộ trí tuệ của chàng, trí tuệ khiến nàng vừa sùng bái vừa cảm thấy sợ hãi đó để đối phó nàng hay không?

Khương Trầm Ngư không biết, thực sự đến ngày đó, mình có thể dũng cảm đối mặt hay không.

“Trầm Ngư”. Lần thứ ba, Cơ Anh gọi tên nàng, “Nàng là cô nương thông minh nhất mà ta từng gặp, cho nên, nàng hoàn toàn biết mình nên làm gì, chẳng phải sao?”.

“Tiểu nữ là đồ ngốc…”. Khương Trầm Ngư lý nhí.

Cơ Anh mỉm cười, nắm tay nàng chặt hơn một chút: “Nàng chỉ là quá lương thiện. Rất nhiều chuyện, thực ra nàng biết phải làm thế nào, nhưng nàng không nhẫn tâm”.

Khương Trầm Ngư ngước mắt, “Cho nên, người như tiểu nữ có phải chắc chắn sẽ không thể sinh tồn trong cái vòng luẩn quẩn này không?”.

Cơ Anh trầm ngâm giây lát, lắc đầu nói: “Không đâu”.

Khương Trầm Ngư nở một nụ cười thê lương: “Đến bây giờ công tử vẫn muốn an ủi tiểu nữ ư?”.

“Điều ta nói là sự thực”. Cơ Anh chăm chú nhìn nàng, nói với vẻ vô cùng nghiêm túc: “Trầm Ngư, nàng mềm lòng, dễ bị cảm động bởi một số chuyện, lại hay giúp đỡ người khác, đây đều là ưu điểm của nàng. Nhưng những ưu điểm này tuy rất mềm mỏng nhưng tuyệt đối không yếu đuối”.

Khương Trầm Ngư lặng thinh lắng nghe.

Sự thông minh của nàng không phải ở chỗ nhìn nhận sự việc sâu sắc hơn, lý giải sự việc thấu triệt hơn người khác, mà là ở chỗ nàng cực kỳ biết giữ chừng mực. Nàng có trực giác kinh người bẩm sinh về phương diện này, khi không thể tranh đoạt sẽ tuyệt đối không tranh, nhưng một khi đã tranh, có thể lên tới Cửu Trùng Thiên. Cho nên, ta tin rằng, chỉ cần nàng hạ quyết tâm đối phó với ai, nhất định có thể tìm được cách chu toàn nhất, không liên lụy đến người vô tội, không tổn thương đến gốc rễ, không vứt bỏ nguyên tắc; mà nàng một khi quyết tâm giúp đỡ ai thì cũng mạnh mẽ và đáng tin cậy như thế. Trầm Ngư, đây là ưu điểm của nàng”. Cơ Anh nói đến đây, nheo mắt cười, “Ưu điểm này là độc nhất vô nhị, đã khiến cho ta cực kỳ hâm mộ. Bởi vì, ta phải học rất nhiều năm mới có thể nắm được chừng mực, còn nàng bẩm sinh đã có”.

Giọng Khương Trầm Ngư bắt đầu run rẩy: “Công tử…”.

“Cho nên, bây giờ điều duy nhất ta có thể khuyên nàng, chỉ có hai chữ – chờ đợi”.

Sương trắng lờ mờ quẩn quanh sau lưng chàng, đôi mắt Cơ Anh sáng bừng, tựa như ánh dưới pha lê, có thể chiếu rọi nhân gian.

Thế là trái tim của Khương Trầm Ngư đã hoàn toàn tan chảy, không còn băn khoăn, không còn kìm nén nữa, nàng rơi lệ, nói: “Tiểu nữ từng thề…”.

Cơ Anh nắm chặt tay nàng, không hề buông lơi.

“Tiểu nữ từng thề… khi những tên sát thủ đó dùng thủ đoạn tàn nhẫn giày vò Sư Tẩu, tiểu nữ đã từng thề với bản thân – Ta phải ghi nhớ cảnh tượng máu thịt bầy nhầy tứ chi đứt đoạn đó ta phải ghi nhớ giọng nói tuyệt vọng, đau đớn, nhục nhã, thảm thiết đó của Sư Tẩu, ta phải ghi nhớ tất cả mọi thứ, sau đó, nếu như ta may mắn không chết, ta phải báo thù! Ta nhất định phải báo thù!”. Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu, nói chắc nịch như chém đinh chặt sắt: “Tiểu nữ không thể tha thứ cho Di Thù, cho dù ả đã từng đáng thương… đến đâu, hiện giờ ả quan trọng với thiên hạ đến đâu! Tiểu nữ càng không thể tha thứ, khi ả muốn giết tiểu nữ vì một lý do hết sức nực cười và hoang đường! Cho nên, tiểu nữ tuyệt đối không tha thứ!”.

Cơ Anh nhìn nàng dịu dàng, tiếp lời nàng, nói: “Vậy thì, hãy bắt đầu suy nghĩ thật kỹ, làm thế nào mới có thể báo thù một cách hiệu quả nhất, nhanh nhất, mà lại không liên lụy đến người vô tội nhất!”.

Khương Trầm Ngư ngước rèm mi ướt đẫm, nghẹn ngào nói: “Có phải tiểu nữ rất bướng bỉnh không?”.

“Nàng có quyền bướng bỉnh – sau khi tính mạng của nàng bị uy hiếp đến thế”. Dường như có một thứ gì đó tan ra trong mắt Cơ Anh, khiến chàng trở nên dịu dàng hơn, đồng thời cũng trở nên đau thương một cách lạ lùng, “Kỳ thực, ta có chút ngưỡng mộ nàng”.

“Tại sao?”

“Bởi vì, đợi đến khi nàng đến được vị trí của ta, nàng sẽ phát hiện…”, Cơ Anh buông tay nàng, quay người, ngẩng đầu nhìn bầu trời phía xa, hững hờ nói: “Bướng bỉnh, thứ này thực sự quá xa xỉ, xa xỉ đến mức căn bản không thể có được, cũng không được phép có”.

Ngọn gió sớm thổi phe phất chiếc áo bào trắng của chàng, mái tóc đen của chàng vẫn tung bay phía sau lưng, rơi vào tầm mắt Trầm Ngư lại hóa thành nỗi tịch liêu, tựa như bất cứ lúc nào chàng cũng có thể tan vào trong màn sương, không còn tồn tại nữa.

Nàng bỗng cảm thấy một mong ước cháy bỏng bỗng trào dâng khắp toàn thân – Nàng muốn ôm chặt, ôm thật chặt lấy công tử, để xác thực chàng thực sự tồn tại, sẽ không biến mất, chàng thực sự thuộc về mình, triệt để hoàn toàn thuộc về mình. Tựa như một người đi trong sa mạc khát khao nước, khát khao đến mức liều mạng, gấp gáp, sốt ruột, không thể khống chế được!

Thế là Khương Trầm Ngư đột nhiên tiến lên phía trước ôm lấy cánh tay của chàng.

Cơ Anh hơi ngạc nhiên, quay đầu lại, ánh mắt hai người giao nhau giữa không trung, khoảnh khắc đó, chàng dường như biết nàng muốn nói gì: “Đợi! Thế nhưng, khát vọng đó quá mãnh liệt, đến nỗi cho dù Cơ Anh định ngăn cản, nhưng nàng vẫn nói mà không tính đến hậu quả: “Tiểu nữ ngưỡng mộ công tử.” Nét mặt Cơ Anh đột nhiên trở nên vô cùng vô cùng cổ quái vì đan xen quá nhiều cảm xúc, khó mà hiểu hết được.

Tiết Thái lộ vẻ bối rối hiếm có, lặng lẽ quay người, dường như muốn bỏ đi, nhưng rón ra rón rén bước được mấy bước rồi lại dừng lại, quay đầu tiếp tục quan sát.

Khương Trầm Ngư căn bản không đoái hoài đến sự tồn tại của người bên cạnh, lấy dũng khí nói hết tất cả: “Tiểu nữ ngưỡng mộ công tử. Giống như một đứa trẻ sợ hãi bóng tối ngưỡng mộ tia nắng bình minh đầu tiên; giống như một kiếm khách ngưỡng mộ thanh danh kiếm tuyệt thế; giống như một nông phu vất vả ba mùa, ngưỡng mộ mùa thu hoạch bội thu; giống như một thiếu nữ mới lớn ngưỡng mộ hộp phấn đầu tiên trong đời, giống như một người thợ trồng hoa kinh qua sương gió, ngưỡng mộ một đóa hoa hé nở, giống như một chủ nhân cô đơn ngưỡng mộ cố nhân quay về… Tiểu nữ dùng tất cả tình cảm tốt đẹp nhất, ấm áp nhất, khao khát nhất trên thế gian này để ngưỡng mộ công tử”.

Cơ Anh lẳng lặng nghe xong, nhìn nàng chăm chú hồi lâu, sau cùng mới chậm rãi nói: “Đa tạ”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, cảm thấy dũng khí và nhiệt tình của mình đã theo những lời thổ lộ đó dần dần nguội lạnh và tan biến, một khi đã bình tĩnh lại, nỗi hối hận liền dâng tràn. Nhất là hai tiếng “đa tạ” của Cơ Anh chẳng khác nào một đạo thánh chỉ, dịu dàng nhưng triệt để tuyên bố lần bày tỏ này đã thất bại.

Ban nãy tại sao lại bồng bột nói những lời này ra mà không nghĩ đến hậu quả?

Rõ ràng biết sẽ không có bất cứ kết quả, bất cứ khả năng nào.

Một câu “đa tạ” đã là câu trả lời tốt nhất mà nàng có thể có được.

Nhưng, nàng đã nói ra rồi.

Vậy thì, đã nói rồi thì không được hối hận.

Phải ôm trong lòng giác ngộ rằng ngày mai ta sẽ chết, cho nên, hôm nay không được phép để lại bất cứ tiếc nuối nào, không được phép kiêng dè bất cứ kỵ húy nào, sau đó, tuyệt đối không hối hận.

Khương Trầm Ngư gắng gượng kìm nén nỗi buồn, ép bản thân ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào Cơ Anh, nhếch môi mỉm cười: “Cho nên, vì công tử có sự ngưỡng mộ tươi đẹp và ấm áp đến thế, xin công tử đừng cảm thấy cô độc nữa. Công tử là người tốt đẹp nhất trên thế gian này. Tốt đẹp nhất, tốt đẹp nhất, tốt đẹp nhất”. Nàng nói liền ba lần từ tốt đẹp nhất, tiếng sau nhỏ hơn tiếng trước, nhưng tiếng sau kiên định hơ tiếng trước.

Gương mặt luôn bình tĩnh, hiếm khi biến đổi của Cơ Anh bỗng nhiên như bị thứ gì đập nát, để lộ một loạt cảm xúc bi thương, cảm động, tự trách… Đang xúc động, cơ thể chàng đột nhiên chấn động, chàng giơ tay ôm ngực, cúi gập xuống.

Khương Trầm Ngư giật mình vì biến cố đột ngột này, vội vàng đỡ lấy chàng: “Công tử? Công tử làm sao vậy?”.

Cơ Anh túm chặt vạt áo của mình, sắc mặt trắng bệch như giấy, mồ hôi túa ra như mưa, hơi thở gấp gáp, tựa như không thở nổi, đồng tử cũng bắt đầu mờ đục.

Khương Trầm Ngư kinh hãi kêu lên: “Công tử! Công tử làm sao vậy? Công tử đừng dọa ta! Lẽ nào! Lẽ nào bát canh đó có độc?” Phản ứng đầu tiên của nàng chính là Di Thù đã hạ độc! Đang định quay người đi tìm Di Thù, Tiết Thái đã bước đến, hắn đẩy nàng ra, đưa tay móc ra một chiếc bình nhỏ trong áo Cơ Anh, nhấc nút bình ra, chẳng đếm bao nhiêu viên mà dốc hết vào miệng chàng.

Cơ Anh uống thuốc xong, hơi thở đã đều hơn, nhưng mặt vẫn xám ngắt, đau đớn không nói nổi nên lời, chỉ có thể mệt mỏi nhìn Tiết Thái một cái. Tiết Thái hiểu ý gật đầu: “Thuộc hạ đi tìm hầu gia ngay!”. Nói rồi vội vã chạy đi.

Không bao lâu sau, Giang Vãn Y lập tức xuất hiện, sau lưng còn dẫn theo hai tên thị vệ. Khương Trầm Ngư còn chưa kịp hỏi hắn bất cứ câu nào, hắn đã ra lệnh cho thị vệ khiêng Cơ Anh vào trong phòng rồi đuổi tất cả mọi người ra, đóng chặt cửa phòng.

Khương Trầm Ngư túm chặt Tiết Thái chất vấn: “Rốt cuộc là chuyện gì? Công tử bị làm sao?”.

Tiết Thái trả lời không thể ngắn gọn hơn: “Bị bệnh”.

Trái tim Khương Trầm Ngư vì thế mà chùng xuống: “Bệnh gì? Bắt đầu từ lúc nào? Công tử bệnh bao lâu rồi?”.

Tiết Thái trầm ngâm giây lát, lắc đầu đáp: “Ta không biết”.

“Ngươi cả ngày ở bên cạnh công tử, sao lại không biết?”.

Có lẽ giọng nàng quá lo lắng, nên Tiết Thái tỏ ra mất kiên nhẫn, hất tay nàng ra, lạnh lùng nói: “Ta đâu phải là đại phu, làm sao biết được? Hơn nữa, bệnh của ngài đã có từ trước khi ta theo ngài. Chẳng qua là luôn giấu giếm, không để bất cứ ai hay biết thôi…”.

Sau đó hắn còn nói những gì, Khương Trầm Ngư hoàn toàn không nghe rõ, đầu óc nàng trống rỗng, đã không còn nghe thấy, nhìn thấy gì nữa, chỉ có một việc bồng bềnh trong đầu nàng, vô cùng rõ rệt…

Công tử…

Vẫn luôn vẫn luôn bị bệnh.

Mà nàng vẫn luôn vẫn luôn không mảy may hay biết.

Khương Trầm Ngư không biết mình đã đứng ngoài phòng bao lâu, sương mù dày đặc giăng kín, ánh dương trong mong đợi vẫn không ló rạng, hôm nay là một ngày cực kỳ âm u.

Gió se lạnh, trước đó không ngờ sẽ ra ngoài lâu như thế, thế nên lúc đi nàng chỉ khoác một tấm áo đơn mỏng manh, nàng khép chặt vạt áo, cảm thấy hai chân tê cứng, tay chân lạnh cóng.

Tiết Thái nhìn nàng một cái, vào một gian phòng khác lấy một chiếc áo khoác ra, vứt lên người nàng.

Lúc Khương Trầm Ngư còn sửng sốt, hắn đã quay mặt đi, giả bộ như không xảy ra chuyện gì, nói: “Đây là áo khoác của công tử, cho ngươi hưởng lợi đấy”.

Trong áo khoác quả nhiên còn mang theo mùi hương Phật Thủ Cam quen thuộc, Khương Trầm Ngư cầm nó trên tay, nhớ đến chủ nhân của chiếc áo không biết đang chịu giày vò đến nhường nào trong căn phòng kia, nỗi xót xa không kìm được dâng trào trong tim.

Rất hoang mang, rất sốt ruột, rất lo lắng, rất bi thương… dường như hết thảy cảm xúc tiêu cực trên thế gian đều đè lên thân thể nàng, đau đớn đến gần như tê dại.

Mà chính vào lúc đó, cửa phòng cọt kẹt mở ra, Giang Vãn Y bước ra ngoài, dặn dò hai tên thị vệ vài câu, đang định quay người đi vào, Khương Trầm Ngư không nhẫn nhịn được nữa, chạy lên trước hỏi: “Công tử bị làm sao? Công tử làm sao vậy? Rốt cuộc chàng bị làm sao?”.

Giang Vãn Y do dự một lát, thận trọng đáp: “Ngài đỡ hơn rồi, muội đừng quá lo lắng…”.

“Rốt cuộc công tử mắc bệnh gì? Tại sao lại đột ngột thành như thế? Công tử bệnh bao lâu rồi? Nghiêm trọng không? Trong chiếc bình nhỏ kia là thuốc phải không? Tại sao uống thuốc rồi mà vẫn không đỡ”. Nàng càng nói càng sốt ruột, cuối cùng dường như càng nói càng loạn, “Thật sự không liên quan đến Di Thù sao? Có phải có người hạ độc chàng không? Có người muốn uy hiếp chàng phải không? Là hoàng thượng…”.

Giang Vãn Y lập tức ngắt lời nàng: “Thục phi nương nương!”.

Khương Trầm Ngư cả kinh, cách gọi này tựa như một chiếc chùy nặng, nện thật mạnh vào trái tim nàng, đồng thời cũng nện bay hết mọi cảm xúc của nàng.

Nàng co rúm lại, lộ vẻ đau đớn.

Sự áy náy thoáng lóe lên trong mắt Giang Vãn Y, hắn quay người định vào phòng, tay áo lại bị giữ chặt. Hắn bất đắc dĩ quay đầu lại, nhìn thấy ánh mắt e dè của Khương Trầm Ngư, ánh mắt ấy mềm yếu đến khó tả, nhưng lại như vô số sợi tơ, đủ để bó chặt bất cứ người nào.

Khương Trầm Ngư cứ nhìn hắn một cách khổ sở đáng thương như thế, túm tay áo hắn, ngón tay không ngừng run lật bật, nói bằng một thanh âm rất khẽ rất khẽ: “Hãy… hãy nói cho muội đi…”, ngừng lại một lát, lại gọi: “Sư huynh… cầu xin huynh”.

Sắc mặt Giang Vãn Y hơi biến đổi, không thể cự tuyệt được nữa. Bởi vì nước mắt của Khương Trầm Ngư đã lăn xuống.

Những giọt lệ to tròn, đọng lại trên bờ mi như dùng mực đen vẽ phác, sau đó mau chóng lăn xuống, khiến đôi mắt nàng càng sâu thêm, đen thêm, làn da nàng càng nhợt nhạt thêm. Hai thứ tương phản, càng nổi bật vẻ đẹp yếu đuối đến kinh người.

“Sư huynh, xin hãy nói cho muội, muội thực sự, thực sự rất lo lắng, cầu xin huynh, cầu xin huynh đấy, sư huynh…”.

Nàng khóc không thành tiếng.

Mặt Giang Vãn Y hết trắng lại xanh, hết xanh lại trắng, cuối cùng thở dài, thấp giọng than: “Công tử mắc bệnh tim”.

“Bệnh tim?”. Khương Trầm Ngư trợn trừng mắt.



Giang Vãn Y ừ một tiếng, “Di truyền bẩm sinh. Mẫu thân của ngài cũng bị bệnh này mà qua đời”.

Khương Trầm Ngư nghĩ đến những chuyện về Cơ Anh mà nàng được nghe trong thọ yến của phụ thân hai năm về trước, mẫu thân chàng đã qua đời trong dịp ấy, lẽ nào bây giờ lại đến lượt công tử?

“Vậy công tử?”.

Giang Vãn Y cụp mắt, thần sắc ủ rũ, Khương Trầm Ngư vội vã nắm tay hắn, cuống quýt gọi: “Sư huynh”.

Giang Vãn Y ngần ngừ mãi, cuối cùng mới trả lời: “Công tử mắc bệnh đã lâu, lại thêm mệt mỏi tích tụ, lao lực quá độ, khí huyết ngưng trệ, hỏa tâm thiêu đốt, đã không thể trị tận gốc, bây giờ điều duy nhất có thể làm là ôn dương bổ khí, lấy tả phù chính…”.

“Muội nghe không hiểu…”. Khương Trầm Ngư thì thầm, “Sư huynh, những lời huynh nói, muội đều không hiểu…”.

Trong mắt Giang Vãn Y lộ vẻ đau thương, chậm rãi nói: “Có nghĩa là nếu công tử có thể không quan tâm đến bất cứ ngoại sự nào, chỉ tĩnh tâm điều dưỡng, có lẽ còn có thể có năm năm tuổi thọ”.

“Còn nếu không thể?”.

“Cùng lắm chỉ một năm”.

Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy một sức mạnh to lớn ập tới, sau đó, hung hăng xé toạc nàng từ đầu đến chân.

Nàng chớp mắt, ngã ra đằng sau, Tiết Thái bên cạnh bất giác đưa tay đỡ, kết quả là hắn cũng ngã lăn ra đất.

Giang Vãn Y vội vàng bước lên sờ mũi nàng, liền thở phào nói với Tiết Thái: “Nàng ấy chỉ là kinh hãi quá độ, bị ngất thôi”.

Tiết Thái nằm dưới người Khương Trầm Ngư, nghiến răng nói: “Mau nhấc nàng ta ra khỏi người ta! Trông thì gầy mà nặng quá, ta sắp bị đè chết rồi”.

Giang Vãn Y sai thị vệ đỡ nàng về phòng, khi quay lại phòng Cơ Anh, đã thấy Cơ Anh đang ngồi tựa trên giường, tuy sắc mặt còn xám xịt, nhưng mắt đã sáng trong trở lại.

“Tại sao công tử không ngủ một lát?”.

Cơ Anh nhìn hắn, khẽ thở dài: “Ngươi không nên cho nàng ấy biết”.

Giang Vãn Y cười khổ: “Thuộc hạ biết”. Ngừng một lát, lại nói: “Nhưng, khi nàng ấy dùng ánh mắt đó nhìn thuộc hạ, gọi thuộc hạ là sư huynh, thuộc hạ không có cách nào từ chối nàng ấy, khước từ bất cứ yêu cầu nào của nàng ấy… Xin lỗi…”.

Cơ Anh cúi xuống nhìn lồng ngực của mình, hỏi sang chuyện khác: “Ta thực sự chỉ còn có thế sống năm năm nữa?”.

Giang Vãn Y xòe tay bất lực: “Như thế đòi hỏi công tử phải tịnh tâm tu dưỡng…”.

“Vậy thì coi như có năm năm đi”. Cơ Anh mỉm cười, “Một nghìn tám trăm hai mươi lăm ngày, có thể làm được rất nhiều chuyện”.

Giang Vãn Y nổi giận: “Công tử!”.

Cơ Anh giơ tay ra, ngăn hắn nói tiếp: “Ta biết, Vãn Y, những gì ngươi muốn nói, ta đều biết cả, cơ thể của mình thế nào, ta là người rõ nhất. Ta quá rõ, đúng thế, tất cả những chuyện này, ta đều quá rõ…”. Nói đến sau cùng, giọng càng lúc càng nhỏ đi, cơ hồ không nghe thấy.

Giang Vãn Y đi tới, đặt một chiếc bình vào tay chàng: “Đây là loại thuốc Hộ Tâm Hoàn tốt nhất mà thuộc hạ có thể chế ra, có thể giải cơn đau đớn nhất thời khi ngài phát bệnh. Nhưng loại thuốc này không thể chữa bệnh tận gốc… Nghe thuộc hạ một câu, công tử, núi xanh còn đó(7)…”.

Cơ Anh nhìn chằm chằm chiếc bình thủy tinh trong suốt đó ánh mắt lúc sáng lúc tối, “Thế nhưng, mười trượng hồng trần, đời này của ta, ngày tháng ngắn ngủi mà vướng bận… lại quá nhiều…”.

Là bao nhiêu năm trước, trong cơn mưa xuân gặp người thiếu nữ ánh mắt sáng trong đó, mái tóc nàng ướt đẫm, những giọt nước như châu như ngọc từng giọt từng giọt lăn xuống, nàng ngước mắt nhoẻn cười, kiều diễm hơn hoa; Là bao nhiêu năm trước, chàng ân cần chăm sóc bên giường mẫu thân, nhìn bà hơi thở thoi thóp, sinh mệnh mất dần, đau đớn không nói nên lời, mà trước khi lâm chung, những lời bà nói với chàng tựa như dao nhọn cắt đứt gân cốt, tựa như máu thịt lần nữa được nhào nặn lại, trong nháy mắt, trời long đất lở, vạn kiếp bất phục;

Là bao nhiêu năm trước, quỳ trước linh vị, đồng hồ cát chảy, trăng đêm lặn mất, cuối cùng đã đưa ra một quyết định bướng bỉnh, không e ngại bất cứ điều gì nữa, dù từ bỏ bất cứ điều gì, cũng phải đi tìm người đó, từ đây rời xa nơi này, sẽ không quay về nữa;

Là bao nhiêu năm trước, khoảnh khắc đẩy cửa, bị ánh lửa rừng rực chiếu sáng chói mắt, trong ánh lửa, phụ thân tuổi già sức yếu bước ra khỏi đám đông, quỳ xuống lạy chàng;

Là bao nhiêu năm trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng ám thất, chiếu sáng gương mặt cuồng điên của người ấy, gào thét với chàng – Chàng nợ ta, chàng nợ ta, đời này kiếp này chàng đều nợ ta!

Là bao nhiêu năm trước, một trận tuyết lớn phủ kín vạn vật, thương hải tang điền, từ đây không còn thứ gì gọi là thiên đường nhân gian, Lại là bao nhiêu năm trước, nhìn thấy một cây hoa lê trong tuyết loáng thoáng ẩn hiện, như cách một đời, nhưng cuối cùng lại từng bước từng bước tới gần?

Mười trượng hồng trần.

Cuộc đời này của chàng, có được quá nhiều, mất đi quá nhiều, mắc nợ cũng quá nhiều quá nhiều.

“Vãn Y, hãy giúp ta”. Cơ Anh nói: “Hãy cho ta năm năm. Ta không tham lam, năm năm là đủ rồi…”.

Đôi mắt Giang Vãn Y bỗng chốc trở nên trĩu nặng.

Ngày hai mươi chín tháng sáu năm Đồ Bích thứ tư, trong buổi thọ yến, Trình vương Minh Cung hạ chỉ truyền ngồi cho Di Thù công chúa, Yên vương Chương Hoa và Nghi vương Hách Dịch cùng lên đế đài, đội mũ miện cho công chúa, vinh quang không gì sánh bằng. Ngày hôm sau, đoàn sứ thần Bích quốc lên thuyền về nước.

Lịch sử bốn nước từ đó bước sang chương mới.

“Ngu cô nương, đã thu đọn xong đồ đạc, có thể khởi hành rồi”. Lý Khánh đến bẩm báo với Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư gật đầu, nhìn xung quanh phòng, những gì cần thu dọn đều đã thu dọn xong, chỉ còn lại cây đàn Yên vương tặng là chưa cất vào hòm, nàng nghĩ một lát rồi ôm đàn đi ra.

Nàng đã về ở tại dịch quán được mười ngày, trong mười ngày này, bề ngoài nhìn như mọi thứ vẫn như lúc đầu, cùng Lý Khánh phụ trách chuyện ăn mặc đi lại ở của các sứ thần, nhưng trong lòng nàng rất rõ, bản thân nàng đang tuyệt vọng đến nhường nào.

Một canh giờ nữa là sẽ xuất phát quay về Bích quốc. Vốn là một chuyện rất vui vẻ cũng vì tin dữ của Cơ Anh mà trở nên chẳng còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa.

Có lúc, nàng không kìm được nghĩ, trong Đại Thiên thế giới này, ngày tháng thấm thoắt thoi đưa, nhưng nếu không có người ấy, thì với nàng, đâu còn ý nghĩa gì? Bao lâu nay, mỗi quyết định của nàng, mỗi cố gắng kiên trì của nàng, chẳng phải đều vì muốn lại gần Cơ Anh thêm một chút, thêm một chút nữa sao?

Khi mục tiêu ấy biến mất, nàng biết đi đâu về đâu?

Cho dù ý chí sa sút như vậy, nhưng khi sự việc bày ra trước mắt nàng lại không thể bỏ mặc, cho nên, nàng vẫn ngày ngày cùng Lý Khánh bàn bạc những việc phải làm trong chuyến trở về, nghe đám trù nương oán thán càm ràm, tiếp xúc với người liên lạc của phụ thân, đáp ứng những yêu cầu như bổ sung tiền bạc, nhân lực của bọn họ.

Sau đó, tranh thủ nhiều thời gian hơn nữa để ở bên công tử.

Công tử thực ra là một người rất bận rộn, trong khoảng thời gian này, nàng phát hiện và chứng thực sự thực này.

Chàng vĩnh viễn không đọc hết được tấu sớ, không ra hết nổi các quyết nghị, các môn khách của chàng hết nhóm này đến nhóm khác, đưa ra đủ loại yêu cầu, còn chàng lại không có lúc nào là không tỏ vẻ ung dung. Ngữ điệu chưa bao giờ gấp gáp nụ cười chưa bao giờ biến mất, thế nhưng, những phiền phức, bất ngờ, thỉnh cầu đó đều được giải quyết gọn gàng trong một cái gật đầu, một cái nhướn mày của chàng.

Khi Cơ Anh xử lý những chuyện đó đều ngầm cho phép Trầm Ngư ở bên cạnh. Nàng biết, công tử cố ý dạy nàng một số đạo lý xử sự, cho nên cũng chuyên tâm học hỏi. Mà ở bên cạnh công tử còn có cả Tiết Thái.

Tiết Thái rất kiệm lời nhưng chỉ cần mở miệng đều có thể khiến người ta tức đến nghẹn họng. Có lúc, nàng cảm thấy hắn vẫn là tiểu thần đồng kiêu ngạo, tài năng nổi trội như trước, nhưng khi hắn không lên tiếng, cụp mắt xuống lại hiện rõ vẻ trầm mặc, mang theo nỗi bi thương khó mà giải tỏa. Mỗi lần như thế, nàng sẽ quên hết mọi lời lẽ vô lễ của hắn đối với mình, sau đó càng lúc càng yêu quý hắn hơn.

Một đứa trẻ như thế, cũng khó trách Yên vương coi trọng hắn. Khi Khương Trầm Ngư đến nơi ở của Yên vương, không kìm được nghĩ về chuyện này.

Mà chính vào lúc này, một người từ trong phòng Yên vương bước ra, hai người mặt đối mặt, cả hai bên đều sững sờ.

Di Thù!

Khương Trầm Ngư không ngờ lại đụng phải nàng ta ở chỗ Yên vương, đặc biệt là giờ đây.

Nàng ta đã trở thành nữ vương của Trình quốc. Nhưng nhìn cách ăn vận trang điểm của nàng ta vẫn cực kỳ tùy hứng, phía sau cũng không có tùy tùng.

Nàng ta đến một mình sao?

Di Thù im lặng dò xét nàng, Khương Trầm Ngư mím môi, lùi ra sau một bước, ôm đàn hành nửa lễ: “A Ngu bái kiến Trình vương bệ hạ”.

Di Thù nhếch môi cười, “Ngu cô nương đa lễ rồi. Cô nương đến tìm Yên vương bệ hạ? Ngài đang ở bên trong… Có điều trước khi vào có thể nói với cô nương đôi lời không?”.

Điều này cũng là điều Khương Trầm Ngư muốn, nàng muốn nghe xem rốt cuộc người này còn có gì để nói với nàng.

Nàng liền lập tức theo Di Thù rẽ sang một góc, bước đến dưới gỗc liễu trong hậu viện.

Gió thổi cành liễu đung đưa, mặt hồ xao động, sóng nước lăn tăn.

Di Thù chăm chú nhìn những gợn sóng đó, như ngây như ngốc, cứ lặng lẽ nhìn mãi như thế, đến khi Khương Trầm Ngư buộc phải lên tiếng nhắc nhở: “Bệ hạ?”.

Ánh mắt Di Thù run rẩy, tĩnh trí trở lại, khi nhìn sang nàng, trong đó thấp thoáng nét cười, sau đó, nàng ta lấy một chiếc hộp từ tay áo ra, đưa đến trước mặt nàng.

Khương Trầm Ngư cầm lấy, mở nắp hộp, một mùi thơm kỳ lạ xộc vào mũi, bên trong đựng đầy dược cao, màu sắc đen tuyền, sáng loáng dị thường.

“Đây là Nha Ngọc”, Di Thù giải thích, “có thể nối xương liền gân trị thương, là một trong các mật bảo của nước ta”.

Khương Trầm Ngư gật đầu nói: “Một đất nước nổi danh nhờ giết chóc, phương pháp trị thương đương nhiên cũng phải cao minh”. Nàng nói không hề khách khí, tuyệt nhiên không có ý cảm tạ, vì thế đáy mắt Di Thù lóe lên một tia không vui nhưng rất mau đã ẩn đi, cười nói: “Trước đây không biết thân phận của nương nương, đã đắc tội nhiều”.

Khi Di Thù bật ra hai chữ nương nương, Khương Trầm Ngư biết ngay thân phận của mình đã bại lộ, tuy không biết là ai tiết lộ, và làm sao lại tiết lộ, nhưng chuyện đó đã không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng rõ ràng Di Thù dùng hai chữ này ám thị nàng, cảnh cáo nàng, giả vờ làm hòa.

Khương Trầm Ngư cười khẩy trong lòng: Trên thế gian này làm gì có chuyện dễ dàng thế?

Di Thù tươi cười nói “May mà vẫn không gây ra lỗi lầm lớn, cho nên, nương nương nhận quà của ta, sẽ không giận ta nữa, được không?”.

“Không gây ra lỗi lầm lớn”. Khương Trầm Ngư nhắc lại một lần nữa rất chậm, rất chậm, “Một cánh tay, một con mắt và hai cái chân, đối với bệ hạ mà nói, hoàn toàn không là gì sao?”.

Gương mặt tươi cười của Di Thù không thay đổi, nhưng ánh mắt lại trở nên sâu xa, thong thả nói: “Đương nhiên không là gì. Có lẽ nói ra sẽ hơi tàn khốc, nhưng, chắc chắn nương nương chưa từng giết người phải không?”.

Khương Trầm Ngư nhớ đến tên thích khách chết dưới lưỡi chủy thủ của mình.

“Nếu nương nương đã từng giết người, hơn nữa từng giết rất nhiều rất nhiều người thì sẽ biết muốn đối phó ai, muốn ai chết ai khiến ta không vui thì phải làm cho hắn đau khổ hơn ta – Những điều này điều biến thành một chuyện vô cùng đơn giản và dễ dàng”.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Ta khiến bệ hạ không vui?”.

Di Thù mím môi, cười cười tự giễu mình: “Thực ra ta rất hổ thẹn, nhưng nếu như có thể làm lại, ta vẫn làm như thế. Ta nói rồi, khi nương nương trải qua một số chuyện rất tăm tối, đạo đức với luân lý đối với nương nương mà nói sẽ hoàn toàn không có tí tác dụng nào. Tì nữ chải đầu cho ta, làm gãy một sợi tóc đen, ta liền không hề thương xót và cho nó một cái bạt tai; cung nhân đánh cờ với ta, ăn của ta một quân cờ, ta liền có thể chém rơi đầu hắn… Cho nên, một nữ nhân xấu xí lại trở thành lý do khiến ta bị một nam nhân nào đó cự tuyệt trên giường, vậy thì muốn thị chết chẳng phải sẽ trở nên không khó lý giải lắm sao?”.

“Tại sao bệ hạ có thể thẳng thắn nói ra những chuyện này?”. Khương Trầm Ngư cảm thấy hơi khó hiểu. Thực ra, Di Thù có thể phủ nhận, càng không cần chủ động nhắc tới, nhưng ả lại hẹn nàng, nói những lời gan ruột này, là vì cái gì?

Di Thù vuốt tóc, cười đầy vẻ phong tình: “Làm thì đã làm rồi, có gì mà không thể thẳng thắn chứ? Càng huống hồ, bây giờ chẳng phải bức tường ngăn cách giữa chúng ta lúc đó đã biến mất rồi sao? Nương nương không phải là sư muội của Đông Bích hầu, mà là phi tử của Bích vương… Vậy thì, y mượn nương nương làm lý do cự tuyệt ta, rõ ràng chỉ là kiếm cớ mà thôi. Lý do để đố kỵ đã không còn, ta bắt đầu phát hiện, ta rất thích nương nương. Nói trắng ra, nương nương có thân phận vương phi cao quý lại đích thân đến Trình quốc, đúng là cực kỳ to gan, lại cực kỳ tiêu sái. Thậm chí ta cảm thấy chúng ta có thể trở thành bạn tốt, nương nương thấy sao?”.

Khương Trầm Ngư im lặng nhìn nàng ta.

Di Thù hữu nghị chìa tay với nàng.

Khương Trầm Ngư nhìn tay nàng ta, sau đó, đóng nắp hộp Nha Ngọc, đưa trả lại.

Di Thù lộ biểu cảm kinh ngạc bất ngờ.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, rất bình tĩnh nói. “Không. Chúng ta không thể trở thành bạn tốt, vĩnh viễn không thể. Đa tạ thuốc của bệ hạ, nhưng, ta nghĩ, ảnh sĩ của ta đã không thể dùng được nữa rồi”. Nói đoạn, quay người bỏ đi.

Di Thù ngẩn người cầm chiếc hộp thuốc đó, vứt đi cũng không phải, giữ lại cũng không xong, lập tức giận dữ quát: “Khương Trầm Ngư, ngươi đừng có rượu mời không uống uống rượu phạt, ngươi tưởng ta thực sự vì thân phận của ngươi mới sợ ngươi, nên đến xin lỗi ngươi, cầu hòa với ngươi chắc? Một kẻ lớn lên trong nhung lụa, thuận buồm xuôi gió như ngươi có tư cách gì để khinh thường ta, cười nhạo ta? Nếu phụ thân của ngươi cũng là một kẻ cầm thú đội lốt người, nếu mẫu thân của ngươi nhu nhược vô năng đến bản thân cũng không bảo vệ được càng không nói đến bảo vệ ngươi, nếu các ca ca của ngươi đối tốt với ngươi chỉ vì muốn làm hoàng đế, nếu ngươi đã trải qua hết thảy những chuyện ta đã trải qua, ta không tin ngươi còn có thể thanh cao, bận tâm đến chuyện sống chết của một tên hạ nhân, miệng đầy nhân nghĩa đạo đức như thế…”.

Khương Trầm Ngư đột ngột quay đầu, đăm đăm nhìn nàng ta, trầm giọng nói: “Ta từ chối ngươi, không phải vì khinh bỉ, vì cười nhạo, càng không phải vì coi thường”.

Di Thù sững người trong giây lát.

Khương Trầm Ngư nói: “Ta chỉ đơn thuần không thích ngươi mà thôi”. Nói rồi tiếp tục đi về phía trước, lần này không hề ngừng bước quay đầu.

Công tử nói nàng cần phải chờ đợi.

Công tử nói nàng có thể bướng bỉnh.

Nàng thực lực không đủ, không báo được thù. Được, nàng chờ.

Thế nhưng, chờ đợi không có nghĩa là quên đi, không có nghĩa là thỏa hiệp, một hộp Nha Ngọc không đổi được cả cuộc đời sau này của Sư Tẩu. Nàng không chấp nhận sự hòa giải kiểu này. Cũng không chấp nhận trở thành bạn bè với loại người này.

Mẫu thân từng nói không được dễ dàng ghét bỏ người khác, vì khi làm tổn thương đối phương, đồng thời bản thân cũng sẽ trở nên hẹp hòi.

Mẫu thân nói làm người phải khoan dung.

Nhưng, tại sao không thể ghét bỏ? Tại sao nhất định phải tha thứ? Nàng không phải người xuất gia, cũng chẳng phải Bồ Tát, nàng chỉ là một người bình thường.

Cho nên, nàng lựa chọn căm ghét Di Thù, tuyệt đối không tha thứ!

Khương Trầm Ngư ôm đàn về trước cửa phòng Yên vương, vừa hay Như Ý đẩy cửa bước ra, nhìn thấy nàng, kinh ngạc mà vui vẻ kêu lên: “Ngu cô nương? Cô nương đến cầu kiến thánh thượng nhà ta sao? Ta đi thông báo ngay…”.

Khương Trầm Ngư ngăn hắn nói: “Không cần đâu. Ta đứng bên ngoài nói mấy câu là được rồi”.

Như Ý ngoẹo đầu, ánh mắt rớt xuống cây đàn Lôi Ngã: “Tại sao Ngu cô nương lại ôm đàn đến? A! Lẽ nào đặc biệt đến chơi đàn để cáo biệt chúng ta?”.

Khương Trầm Ngư cười mỉm: “Đúng thế”.

“Hay quá! Ta đi lấy cho cô nương cái ghế!”. Như Ý nói rồi vội vã chạy vào trong, không lâu sau, cùng Cát Tường khiêng một bộ bàn ghế ra. Khương Trầm Ngư đặt đàn lên bàn, ngồi xuống, nghĩ một lát, rồi gẩy khúc “Cao Sơn Lưu Thủy”.

Ngón tay lướt, dây đàn rung, thanh âm tuôn trào.

Núi trang nghiêm, nước trong lành, gió phe phẩy, tình chớm dâng, đều lần lượt ngân lên dưới ngón tay nàng.

Núi cao sừng sững, nước chảy dạt dào, mây mù chờn vờn, âm luật mênh mang. Cảnh sinh từ đàn, nổi lên cùng nhạc, một khúc đàn dứt, khiến người chẳng biết đêm nay là đêm nao.

Như Ý hơi há miệng, hơi lâu không thể cử động, đến khi hắn sực tỉnh, nhận ra tiếng đàn đã ngừng, liền phát hiện bàn ghế trướctrống không, nào có bóng dáng Khương Trầm Ngư? Chỉ có cây đàn Lôi Ngã đó vẫn đặt trên bàn như cũ .

“Hả? Ngu cô nương đâu? Ngu cô nương! Ngu cô nương!”.

Hắn đang định đuổi theo, Chương Hoa đã nói vọng từ trong phòng ra: “Đừng gọi nữa, nàng ấy đi rồi”.

“Nhưng Ngu cô nương quên mang đàn theo!”. “Nàng ấy không quên”. “Hả?”.

Chương Hoa thở dài, khẽ nói: “Lần này nàng ấy đến đây là để trả lại ta cây đàn này mà thôi”.

Như Ý trợn tròn mắt, nghĩ mãi không hiểu.

Mà bây giờ Khương Trầm Ngư đã về đến dịch sở của Bích quốc.

Mới vừa bước vào sân, đã nghe thấy một câu: “Thật giảo hoạt”.

Nàng quay lại, thấy Tiết Thái đang ngồi bên Mạn Châu Sa Hoa, xung quanh không còn ai khác. Nàng không khỏi nhướn mày: “Ngươi đang nói với ta?”.

“Ngoài ngươi ra, còn ai khác nữa?”. Tiết Thái mím môi cười lạnh lùng, lại nói lần nữa: “Thật giảo hoạt”.

“Ta không hiểu ý của ngươi”.

Tiết Thái vứt hoa xuống, đứng dậy, nhìn thẳng nàng: “Tại sao ngươi lại trả đàn cho Yên vương?”.

“Thất phu vô tội, nhưng thân giấu ngọc mới là mang tội”(8). Thân là vương phi của Bích quốc, ta sao có thể lén nhận đàn của Yên vương, chuyện truyền ra ngoài, sẽ khiến người đời dị nghị”.

“E rằng không chỉ như thế?”. Tiết Thái tiến đến gần nàng thêm một bước, ánh mắt sâu thẳm.

“Vậy ngươi nghĩ ta còn dụng ý gì?”

“Lùi để tiến. Hôm nay ngươi trả ngài một cây đàn, ngày mai nếu ngươi hỏi xin ngài thứ khác, ngài sẽ không thể từ chối”.

Tiết Thái chớp chớp mắt, “Nước cờ tuyệt điệu này, ta không tin ngươi không nghĩ tới”.

Khương Trầm Ngư đảo mắt, cũng cười nói: “Tùy ngươi nói thế nào cũng được”.

“Cho nên ta mới nói ngươi giảo hoạt mà!”.

“Như nhau như nhau”. H người vừa nói vừa sóng vai bước tiếp.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, hỏi: “Hôm đó rốt cuộc ngươi dâng Yên vương lễ vật gì? Tại sao ngài nhìn thấy lễ vật lại chấn động đến thế?”.

Tiết Thái cau mày: “Ngươi muốn biết?”.

“Ừ”. Thấy hắn sắp chớp mắt, Khương Trầm Ngư vội nói: “Ngươi đừng bảo ta đoán! Nếu ngươi không nói cho ta biết, ta sẽ hỏi thẳng công tử. Ta nghĩ, công tử nhất định sẽ nói với ta”.

Ánh sáng trong mắt Tiết Thái vụt tắt, hừ một tiếng, khẽ nói: “Hồng nhan họa thủy”.

Khương Trầm Ngư vờ như không nghe thấy.

Thế là Tiết Thái đành trả lời: “Thứ ta dâng lên ngài là một loại bươm bướm, tên là Vũ Thủy điệp”.

“Bươm bướm?”. Không thể không nói, đáp án này quá sức bất ngờ.

“Yên vương thích bươm bướm, đủ loại đủ kiểu bươm bướm. Mà loại Vũ Thủy điệp này có thể nói là loài bướm đẹp nhất quý hiếm nhất trên đời, đúng như tên gọi của nó, nó sinh sống bên dòng nước, thích ẩm ướt, chỉ có trong lãnh thổ Trình quốc mà hễ rời khỏi nơi sinh trưởng là chết ngay. Yên vương tốn bao nhiêu năm, nhưng mỗi lần vất vả bắt được, khi đưa đến tay ngài, bươm bướm đều chết cả. Cho nên lần này ngài đích thân đến Trình quốc bắt bướm”.

“Quả thực không thể tưởng tượng”.

“Thực ra ta cảm thấy không có gì kỳ quái, thân là một đế vương, áp lực quá nặng nề, trách nhiệm quá lớn lao, nếu không tìm chút thú vui để ký thác và phát tiết một chút, rất dễ quỵ ngã. Cho nên, đối với Yên vương mà nói, ngài mê mẩn những con bướm tuyệt mỹ; đối với thần tử của Yên vương mà nói, quân vương anh minh của họ có một thú vui nhỏ tao nhã chẳng ảnh hưởng đến ai. Đôi bên đều vui vẻ”.

“Đợi đã, ngươi nói loài bướm đó hễ rời khỏi nơi sinh trưởng là chết, nhưng ngươi dâng con bướm còn sống cho Yên vương?”. Khương Trầm Ngư nắm được then chốt của vấn đề.

Tiết Thái gật đầu: “Không sai”. “Làm thế nào vậy?”.

“Rất đơn giản, đem tặng cả nước đó là được”. Tiết Thái nói đến đây, nhếch miệng khinh bỉ nói: “Cho nên mới nói những kẻ mà Yên vương phái đi trước đây đều là bọn ngốc, chỉ biết bắt bướm nhét vào ống trúc mang đi dâng vua. Hết con này đến con khác chết, tìm đủ nguyên nhân, cho rằng thức ăn không đúng, khí hậu không thích hợp… Ngốc chết đi được”.

Khương Trầm Ngư bỗng thấy buồn.

Vốn tưởng Tiết Thái gặp biến cố lớn tính tình thay đổi, kết quả thay đổi thì có thay đổi, chỉ có điều, hắn trở nên càng cay nghiệt hơn.

Hai người đang nói chuyện, Lý Khánh nhìn thấy họ qua cửa sổ hoa sảnh, lập tức chạy ra, nén thấp giọng nói: “A Ngu cô nương, Nghi vương bệ hạ chờ cô nương ở trong rất lâu rồi”.

Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên, vội vàng bỏ lại Tiết Thái đi vào hoa sảnh, thấy Hách Dịch ngồi trong sảnh, vừa uống trà vừa nói cười cùng thị nữ dâng trà, thấy nàng tới, chàng đặt tách trà xuống, đứng dậy mỉm cười.

Khương Trầm Ngư ra hiệu thị nữ đó lui ra.

Ánh mắt Hách Dịch lưu luyến theo bóng thị nữ đó hồi lâu mới thu lại, tiếc nuối nói: “Trà của Tiểu Tinh pha rất ngon, đáng tiếc quá, e rằng đây cũng là lần cuối cùng ta được uống trà nàng ấy pha”.

Khương Trầm Ngư cười nói: “Nếu bệ hạ thích, sau này có thể năng đến Bích quốc. Ta nhất định sẽ cắt đặt nàng ta pha trà cho bệ hạ”.

“Được, nàng hứa rồi nhé”. Hai người nhìn nhau cười, cười rồi lại cười, nhưng Hách Dịch không cười nổi nữa.

Chàng ngừng cười, ánh mắt sâu thẳm nhìn nàng chăm chú, chậm rãi nói: “Ta xin lỗi Thục phi nương nương vì sự đường đột trước đây của ta”.

Hàng mi Khương Trầm Ngư run run, “Cuối cùng bệ hạ đã biết rồi…”.

“Đúng thế. Biết rồi…”, giọng nói của Hách Dịch nhẹ nhàng khó tả, nhưng lọt vào tai nàng liền trở nên vô cùng nặng nề, “Biết quá muộn. Đúng không?”.

Đến đây, còn có thể nói gì? Khương Trầm Ngư đành đáp: “Xin…”

Hách Dịch giơ ngón tay lên, khẽ lắc lắc: “Nàng không cần nói xin lỗi, nàng căn bản không nợ ta thứ gì… Tất cả… đều là ta… là ta chỉ nghĩ đến cảm xúc của bản thân, cưỡng ép người khác. Người nên xin lỗi… là ta”.

Khương Trầm Ngư đăm đăm nhìn chàng, mỉm cười dịu giọng nói: “Bệ hạ cũng không cần xin lỗi. Bởi vì… bệ hạ đã cho một nữ tử như tiện thiếp sự tán thưởng lớn nhất, ta thực sự rất cảm kích ngài”.

Ánh mắt Hách Dịch từ nhạt chuyển dần sang đậm.

Khương Trầm Ngư tiếp tục nói: “Kỳ thực, lần này ta xuất cung cũng là bất đắc dĩ. Ta thường nghĩ chắc chắn là vì ta không tốt, cho nên mới không thể hạnh phúc như những nữ tử đã gả chồng khác. Khi ta làm tất cả những chuyện mà trong mắt người khác có thể coi là không thể tưởng tượng nổi đó, sẽ cảm thấy khó nén nổi bi thương. Thế nhưng, may mà ta gặp được bệ hạ. Thứ bệ hạ cho ta là thứ ấm áp nhất đẹp đẽ nhất thế gian. Một người có thể được một người khác yêu mến, đối với người ấy mà nói, đó là một sự khẳng định to lớn biết bao. Cho nên ta phải đa tạ bệ hạ”.

“Tiểu Ngu…”.

“Bệ hạ, ta là Trầm Ngư. Khương Trầm Ngư”.

Hách Dịch vẫn cố chấp: “Tiểu Ngu”.

Khương Trầm Ngư trầm ngâm một lúc, không kiên trì nữa: “Được, Tiểu Ngu”.

“Giữa chúng ta từng có một giao ước”.

“Đúng thế, chúng ta có giao ước”.

“Bây giờ, đã đến lúc thực hiện giao ước đó rồi”. Hách Dịch vừa nói vừa lấy từ trong tay áo ra một vật, đó là ba cây pháo hoa dài bằng ngón tay, vô cùng tinh xảo.

“Đây là Lam Diễm (pháo hoa) cực phẩm tiến cống năm nay, tổng cộng có sáu cây, vốn định dùng vào dịp quốc khánh. Bây giờ ta giao ba cây này cho nàng. Một cây pháo hoa tượng trưng cho một nguyện vọng ta nợ nàng. Ngày nào đó, nếu nàng nhớ ra muốn yêu cầu gì, hãy đem nó đến bất cứ cửa hiệu nào của Nghi quốc, ta sẽ biết”.

Ba cây pháo hoa nhỏ xíu nhẹ bẫng, nhưng vì có một lời hứa như thế mà trở nên nặng tựa ngàn cân.

Khương Trầm Ngư lặng lẽ đưa hai tay nhận lấy, khi ngước mắt lên, mắt đã hoe đỏ. “Ta có thể dùng bây giờ không?”.

Hách Dịch trợn mắt vì bất ngờ.

Khương Trầm Ngư lấy cây thứ nhất, đặt vào lòng bàn tay chàng, khẽ nói: “Nguyện vọng đầu tiên của ta, hy vọng bệ hạ khỏe mạnh”. Bởi vì, khỏe mạnh thực sự là điều rất quan trọng, rất quan trọng. Mà công tử của nàng đã không còn khỏe mạnh nữa.

Khương Trầm Ngư lấy câ thứ hai, đặt vào lòng bàn tay chàng, khẽ nói: “Nguyện vọng thứ hai của ta, hy vọng bệ hạ không đau buồn, ít nhất, không buồn vì Tiểu Ngu. Nếu như bệ hạ gặp phải chuyện gì buồn, hãy nhớ đến cách xa vạn nước nghìn non, có một người hy vọng bệ hạ vui vẻ, vậy thì, hãy thử nở một nụ cười. Ngài là Duyệt đế, mà muốn làm dân vui, trước tiên, phải làm mình vui trước đã”. Đời này của nàng chung quy sẽ phụ người này. Hách Dịch đến quá muộn… Giống như nàng xuất hiện quá muộn đối với công tử. Đem lòng ấy so với lòng này, nàng không nhẫn tâm làm tổn thương Hách Dịch, giống như không nhẫn tâm làm tổn thương chính mình.

Hách Dịch nhìn nàng, nhìn nàng đăm đăm, không hề chớp mắt, tựa như thời gian được chăm chú ngắm nhìn nàng rất ngắn mỗi lần chớp mắt, sẽ khiến thời gian này ngắn đi.

Đau lòng nhất là thời khắc ly biệt.

Nhất là trong thời khắc như thế, Khương Trầm Ngư dùng ba lời hứa của chàng, chỉ mong chàng được hạnh phúc.

“Nguyện vọng thứ ba của ta…”. Nhìn thấy nàng sắp lấy cây pháo hoa cuối cùng đặt vào tay mình, Hách Dịch vội vàng nắm lấy tay nàng, trầm giọng nói: “Cây cuối cùng này… hãy giữ lại cho mình”.

Khương Trầm Ngư mím môi cười nói: “Ta vẫn chưa nói ngài đã ngăn, sao có thể biết nguyện vọng này không phải là dành cho ta?”.

Hách Dịch sững người, buông tay.

“Nguyện vọng thứ ba của ta chính là hy vọng bệ hạ có thể cùng ta bắn ba cây pháo hoa này ngay bây giờ. Bởi vì, lễ mừng quốc khánh của Nghi quốc, chắc chắn ta không thể chứng kiến, cho nên, hãy để cho ta được tận mắt ngắm nhìn pháo hoa Lam Diễm nơi danh thiên hạ này ở đây”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với chàng, “Yêu cầu này có được không?”.

Đôi mắt Hách Dịch loang loáng nước, mãi sau, mỉm cười đáp lời nàng: “Được”.

Lam Diễm nở rộ.

Giữa ban ngày mà vẫn vô cùng rực rỡ.

Dưới bầu trời pháo hoa, sứ xa của Bích quốc đã chỉnh đốn xong, bánh xe lăn trên đá xanh, đội ngũ dài dằng dặc chậm rãi tiến về phía bến cảng.

Khương Trầm Ngư nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ, tầng không xanh thẳm như thế, pháo hoa đẹp đẽ như thế.

Tiết Thái bên cạnh ngó đầu nhìn, sau cùng dán mắt nhìn nàng hồi lâu, biểu cảm kỳ quái.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Tại sao ngươi lại nhìn ta như thế?”.

“Ngươi có biết ba lời hứa của Nghi vương có nghĩa là gì không?”.

“Có nghĩa là gì?”.

“Nghĩa là chỉ cần ngươi thích, ngươi có thể tùy ý có được muôn vàn tiền bạc;

chỉ cần ngươi thích, ngươi có thể dùng vàng ném người đến tê cả tay, chỉ cần ngươi thích, ngươi có thể ngày ngày gan rồng dạ phượng hưởng hết tất cả những thứ có thể dùng tiền hưởng thụ được…”.

Khương Trầm Ngư nghe đến đây, cười phì một tiếng: “Bị ngươi nói như thế, giống như chỉ còn lại tiền thôi”.

“Vốn là tiền mà. Bỏ qua một đại thần tài như thế, đồ ngốc”.

Khương Trầm Ngư cười cười, cụp mắt xuống, sau cùng khẽ nói: “Ta không phải không biết sự quan trọng của tiền bạc, ta cũng không thanh cao đến mức nói ta không cần tiền, chỉ có điều…”

Tiết Thái nghiêng tai lắng nghe.

“Người này thích ta. Tiểu Thái”. Giọng nói của nàng rất khẽ rất khẽ, ánh mắt rất đỗi dịu dàng, nàng nói bằng một thứ tình cảm xuất phát từ gan ruột, “Không tính toán thân phận, không để ý được mất, đơn thuần chỉ vì ta là ta mà thích ta như thế. Cho nên, khi đối diện với sự yêu mến ấy, ta không có cách nào nghĩ đến những chuyện như đường lùi với lợi ích… Điều duy nhất ta có thể làm chính là làm hết khả năng để duy trì sự thuần túy của nó”.

Đôi mắt Tiết Thái đen và sâu thăm thẳm.

Mặt Khương Trầm Ngư hơi đỏ lên, “Đến khi ngươi lớn ngươi sẽ biết, có thể được người ta thích là chuyện khó khăn biết bao nhiêu…”.

Vẻ mặt Tiết Thái thoắt biến đổi, cuối cùng hừ một tiếng, quay mặt đi.

Xe đi được nửa canh giờ đến bến cảng. Xa xa, nước biển xanh ngăn ngắt và bầu trời xanh vời vợi chiếu rọi lẫn nhau, mặt trời nhô lên đằng Đông, ráng đỏ nhuộm một vùng chân trời lại gần hơn chút nữa, có tiếng hải âu kêu lảnh lót, đám thuyền viên căng buồm, một cơn gió nổi, lá cờ gấm bay phần phật.

Mùa hạ thật là tươi đẹp.

Lại là một ngày thời tiết tốt, nắng vàng rực rỡ.

Thế nhưng thọ mệnh của công tử cũng ngắn đi một ngày.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn mặt nước bị ánh dương phản chiếu thành ngũ sắc lấp loáng, không khỏi nghĩ. Nếu như, nếu như tình yêu của ta có thể khiến công tử khỏe hơn, vậy thì, ta sẽ càng yêu, càng yêu chàng hơn; nếu như, nếu như ta không yêu công tử, mà có thể khiến bệnh tình của chàng tốt lên, vậy thì ta thà từ bỏ mối tình này.

Thần Phật ơi, hãy tha thứ cho phút giây yếu đuối này của con.

Yếu đuối đến mức muốn dùng sự cân nhắc hão huyền này để mong cầu một kết quả.

Bởi vì, con thực sự, thực sự, thực sự, quá bất lực. Cũng thực sự, thực sự bi thương.

Cho dù thế nào, xin nhất định, nhất định phải phù hộ công tử, để chàng khỏe lại, khỏe lại…

Anh quân tử hoa, triêu bạch ngọ hông mộ tử, tận phương hoa diệc bất quá quán tuyệt nhất tịch.

Ngu mỹ nhân thảo, xuân thanh hạ lục thu hoàng, sổ trung trinh tốt nan đắc duyên kết tam quý.

(Hoa anh (đào) quân tử, sáng trắng trưa đỏ chiều tím, phô hết hương thơm cũng chẳng quá một đêm Cỏ Ngu Mỹ Nhân, xuân xanh hạ biếc thu vàng, mấy bận trung trinh khó có thể duyên kết ba mùa)

Đầu thuyền, tiếng từ và vang lên…

Thuyền rời bến cảng, đi về hướng Trình quốc.

Ghi chú: (1) Chim Yến trùng với chữ Yên trong Yên quốc. Chữ (yan) có hai âm đọc, đọc là Yến nghĩa là chim én, đọc là Yên chỉ tên đất, tên nước.

(2) Mười người gồm chín tùy tùng và cả Hàm Kỳ.

(3) Hai câu trong bài từ “Thước kiều tiên” của Tần Quán, bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo.

(4) Câu này xuất xứ từ điển cố: Thời Xuân Thu, Tề Hy Công muốn gả con gái của mình cho thái tử Hốt của nước Trịnh, nhưng thái tử Hốt từ chối nói: “Mỗi người đều có đối tượng của mình, nước Tề là nước lớn, không phải là đối tượng của ta”. Về sau thành ngữ “Tề đại phi ngẫu” dùng để từ chối hôn nhân vì đối tượng quá cao, không với tới được.

(5) Liễu Hạ Huệ: Tên thật là Triển Cầm, tự là Quý, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là chính nhân quân tử.

(6) Một câu tục ngữ của Trung Quốc, ý nói bỏ qua cơ hội sẽ không còn lần sau.

(7) Một vế của câu thành ngữ “núi xanh còn đó, không sợ thiếu củi đốt”.

(8) Ý của câu này là bảo vật sẽ dẫn đến tai họa.

Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.com

truyện Đam Mỹ
truyện sắc
truyện full

Nhận xét của độc giả về truyện Họa Quốc

Số ký tự: 0

    Bình luận Facebook