Nhi Nữ Hầu Môn

Chương 169: Hận cũ khó quên

Tố Tố Tuyết

04/01/2017

Edit + Beta: Ánh Nguyệt

Nghe trong nhà truyền đến tiếng khóc đứt quãng, Tuệ An bất giác thở dài, chỉ cảm thấy trên đời này có quá nhiều chuyện bất công, thật là làm cho lòng người nảy sinh thương cảm. Rõ ràng là đứa con trai kia của Hữu tướng phạm sai lầm, lại cứ phải hành hạ hai cô cháu đáng thương này.

Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An buồn bã thì lắc đầu, nói:

“Nghe nói cơm chay của Tê Hà tự cũng không tệ, đợi lát nữa dùng cơm chay xong, ta dẫn nàng đi tham quan xung quanh một chút.”

Lúc này Tuệ An mới quay đầu lại, nhìn Quan Nguyên Hạc hỏi:

“Thế còn chỗ này thì an bài thế nào? Nơi đây người đến người đi vô số, đừng để xảy ra chuyện ngoài ý muốn.”

Nếu để Vân Tri bị người phát hiện, chỉ sợ sẽ rước về phiền toái lớn, đặc biệt là hiện giờ Quan Nguyên Hạc còn đang trong giai đoạn nghiền ngẫm lỗi lầm.

Quan Nguyên Hạc nghe vậy, nói:

“Yên tâm đi, chỗ này rất an toàn, tiểu tăng nhân vừa rồi cũng là người của ta.”

Tuệ An nghe vậy ánh mắt chớp động, Phật môn tuy nói là nơi thanh tịnh nhưng hóa ra cũng chẳng thể thoát ly trần tục, các phủ một khi có động tĩnh gì, chúng nữ nhân trong hậu viện liền quay người đến Phật môn dâng hương cầu nguyện. Mặc dù mục đích tới đây là không đồng nhất, nhưng cũng có thể nghe ngóng được tiếng gió của các phủ. Tê Hà tự là ngôi chùa nổi danh nhất nhì ở Đại Huy, cũng chùa chiền thuộc sự quản lý của Hoàng gia, người lui tới không phú cũng quý, có thể gài người vào chỗ này, đều là những đại gia tộc với nền móng trăm năm.

Tuệ An vừa nghĩ vừa đi vào sương phòng, cơm chay của Tê Hà nức tiếng gần xa, nàng dùng chút mì chay cùng một chén cháo trắng liền cùng Quan Nguyên Hạc ra khỏi tiểu viện, thẳng hướng điện Quan Âm mà đi.

Vừa rồi tuy là hai người đã thắp hương cầu phúc, nhưng quỳ lạy đều không phải là Bồ Tát, cầu xin con cái nhưng lại phải cúng bái Bồ Tát thì mới linh nghiệm. Tuệ An kéo Quan Nguyên Hạc một đường đi vào đại điện, trong điện vô số người hối hả quỳ lạy. Thấy đằng trước còn có hai vị phu nhân đứng chờ, Tuệ An cũng không nóng nảy, chỉ đưa mắt đánh giá cảnh trí trong điện.

Trong đại điện đa phần là nữ tử, Quan Nguyên Hạc vốn dĩ tướng mạo xuất chúng, cảm giác tồn tại lại mạnh, đứng ở trong điện rất dễ gây chú ý, dẫn tới mọi người rối rít ghé mắt liếc qua. Thấy vậy, Tuệ An không khỏi trong lòng có chút ngọt, nàng ngước mắt nhìn Quan Nguyên Hạc, thấy vẻ mặt y không được tự nhiên, đối diện với ánh mắt của nàng liền nói:

“Ta ra ngoài chờ.”

Lời của y còn chưa nói hết, Tuệ An đã tiến lên một bước kéo lấy ống tay áo y, nhướng mày nói:

“Chàng cùng ta cầu mới linh nghiệm.”

Nàng dứt lời, thấy Quan Nguyên Hạc hơi cau mày, chân lại không hề di chuyển, bất giác giương môi nở nụ cười.

Đợi hai vị phu nhân phía trước thắp hương xong, Tuệ An liền gấp rút lôi kéo Quan Nguyên Hạc tiến lên, song song quỳ xuống nệm gấm, tiếp nhận ống thẻ tiểu sư phụ đưa lên, lắc lắc rút ra một quẻ xăm.

Tuệ An nhặt quẻ xăm đưa cho tiểu sư phụ, Quan Nguyên Hạc đứng dậy đỡ Tuệ An lên, hai người mới cùng nhau đến chỗ giải xăm ở điện bên cạnh. Vị hòa thượng giải xăm ngồi sau bàn gỗ, tiếp nhận quẻ xăm nhìn coi, giải nói:

“Quẻ này nếu hỏi về đường con cái thì là tiểu nam đồng, tuy có trắc trở nhưng không cần quá lo lắng, chỉ cần năng thắp hương xin Bồ Tát phù hộ là được. Đây là trung thượng ký*, ý nói phu nhân nhất định có thể cầu được con nối dòng, còn là nam thai, chỉ có điều lúc mang thai sẽ có hung hiểm, nếu sớm ngày cầu xin Bồ Tát phù hộ, sau cơn hung hiểm mọi sự càng thuận lợi, ngày này sang năm nhất định có thể ôm tiểu công tử vào lòng.”

*Quẻ xăm tốt nhất là Thượng Thượng ký, xấu nhất là Hạ Hạ ký, Trung Thượng ký là quẻ trung lập, có tốt có xấu, cũng là quẻ có số lượng khá nhiều trong ống xăm.

Tuệ An nghe vậy bất giác sững sờ, chỉ cảm thấy vị sư phụ này rõ ràng chính là muốn tiền nhang đèn, cái gì mà chỉ cần sớm cầu xin Bồ tát nhất định có thể qua cơn hung hiểm cơ chứ. Nàng vốn chẳng phải người tin Phật, cũng chỉ cầu một đứa bé mà thôi, lần này lại vừa vặn cùng Quan Nguyên Hạc đi tới nơi này, mới lôi kéo chàng thử một lần, còn giải ra quẻ gì nàng nhưng lại không quá để trong lòng.

Quan Nguyên Hạc không phủ nhận mình là kẻ gặp người giết người, gặp Phật giết Phật, trên người vốn đã dính đầy máu tanh, càng không phải người tin Phật. Nghe vậy chỉ liếc mắt ra hiệu cho Quan Vinh ở sau lưng, đợi Quan Vinh dâng lên tiền nhang đèn, y liền nhìn Tuệ An. Tuệ An thấy vậy, mới cười nói với vị hòa thượng giải xăm:

“Làm phiền sư phụ.”

Tuệ An nói xong cũng đứng lên, đi theo Quan Nguyên Hạc ra khỏi đại điện.

Người bình thường nếu không cầu được quẻ tốt nhất hoặc nghe sắp có chuyện hung hiểm lập tức sẽ hỏi han đôi điều, gặp hai người Tuệ An mang thái độ như thế, vị hòa thượng giải xăm nhìn theo bóng lưng hai người đã đi xa, chỉ lắc đầu cười nhẹ một tiếng.



Tuệ An cùng Quan Nguyên Hạc ra khỏi đại điện liền hướng về phía sau núi mà đi, cảnh sắc quanh Tê Hà tự cực kỳ có thú, núi non trùng điệp, nước chảy hoa rơi, sau núi càng là lá xanh rợp lối, có lẽ do lúc này đã vào giữa trưa, đúng là khi tăng nhân lẫn khách hành hương nghỉ ngơi dùng bữa trong chùa, cho nên không khí phía sau núi vô cùng trong lành, cũng không thấy có người nào khác.

Quan Nguyên Hạc mang theo Tuệ An một đường đi lên, không bao lâu liền tiến vào một rừng trúc, trúc xanh mọc thành hàng, không biết đã bao nhiêu năm tuổi rồi, cây nào cây nấy to cao vững chãi, che lấp cả ánh mặt trời nóng bỏng ngày hè. Hương trúc thơm ngát tràn ngập khoang mũi, lá trúc xanh biếc còn mang theo từng giọt nước mưa của đêm qua, thỉnh thoảng có giọt theo gió rơi xuống, phất qua trán lẫn hai gò má, thấm vào vạt áo, mát lạnh như sương.

Tuệ An cùng Quan Nguyên Hạc nắm tay đi về phía trước, hồi lâu mới dừng lại giữa rừng trúc, Quan Nguyên Hạc tìm một tảng đá ngồi xuống, y ôm Tuệ An vào trong ngực, đầu đặt trên vai nàng, hít sâu một hơi.

Tuệ An thấy y không nói lời nào, cũng yên lặng tựa vào lồng ngực y, ngước mắt nhìn lên bầu trời thấp thoáng sau lá trúc, cong môi mỉm cười.

Một trận gió thổi qua, lá trúc ma sát vang lên tiếng xào xạt, bọt nước lất phất rơi xuống làm ướt áo hai người, hơi lạnh theo giọt mưa thấm vào da thịt, chọc cho Tuệ An cười lên khanh khách.

Quan Nguyên Hạc ngắm khuôn mặt nàng tươi cười như hoa, gò má vương nước mưa hơi lắc lắc, toàn thân nhẹ nhàng linh động, cũng cười nói:

“Trước đây rất lâu, ta thường cùng Nhị ca tới chỗ này chơi trốn tìm.”

Tuệ An nghe trong thanh âm của y mang theo hồi ức cùng hoảng hốt, trong lòng vô thức giật thót một cái. Vừa rồi Quan Nguyên Hạc mang theo nàng một đường thẳng hướng bên này mà đi, nàng cũng phần nào nhận ra nơi này có ý nghĩa đặc biệt đối với y. Hơn nữa khi đã đặt mình trong rừng trúc, Tuệ An càng cảm thấy hương trúc mát lạnh ở nơi đây giống hệt mùi hương vẫn luôn thoang thoảng toát ra trên người y, liền biết nơi đây ắt hẳn có chút bí mật. Giờ nghe Quan Nguyên Hạc nói, Tuệ An liền thu lại nụ cười, vòng tay ôm eo Quan Nguyên Hạc, dựa vào trong lòng y, nhẹ giọng nói:

“Khi đó chắc chàng còn bé tí đi?”

Quan Nguyên Hạc có hai ca ca cùng mẹ, Đại ca chỉ sống đến bốn tuổi thì qua đời, Nhị ca cũng không sống quá sáu tuổi. Mẫu thân Quan Nguyên Hạc là Cố thị gả vào Quan phủ năm năm liền sinh dục ba trưởng tử, tuy hai đứa bé trước không thể nuôi sống, nhưng nàng vẫn được các quý phu nhân kinh thành khen là người có phúc.

Quan Nguyên Hạc cùng vị ca ca thứ hai hơn kém nhau hai tuổi, lúc Nhị ca qua đời y mới vừa tròn bốn tuổi, một đứa bé bốn tuổi thì có thể nhớ được bao nhiêu về người ca ca đã mất kia chứ? Cho nên Tuệ An nghe Quan Nguyên Hạc dùng ngữ điệu chứa chan xúc động nhắc đến vị Nhị ca kia, trong lòng mới cảm thấy kinh ngạc.

“Ừ, khi đó ta vừa tròn bốn tuổi, ca ca cũng mới hơn sáu tuổi. Bởi vì Nhị ca mắc một chứng bệnh hiếm thấy, mà chủ trì của Tê Hà tự lúc đó là Vô Tức đại sư nổi tiếng y thuật cao siêu, cho nên mẫu thân liền dẫn huynh đệ chúng ta hàng năm ghé qua Tê Hà tự. Một là vì chữa bệnh cho Nhị ca, hai nữa cũng là muốn tới gần Phật tổ, mong được ngài che chở, phù hộ Nhị ca sớm ngày khỏi bệnh, ai mà ngờ được…”

Quan Nguyên Hạc nói đến đây, dường như nghĩ tới chuyện gì không vui, đột nhiên ngừng lại, ánh mắt cũng bỗng nhiên lạnh xuống.

Tuệ An đang lẳng lặng nghe, tức thì cảm giác được thân thể Quan Nguyên Hạc cứng đờ, cánh tay y đặt trên eo nàng cũng vô thức dùng sức, suýt nữa siết nàng không thở nổi. Trong lòng nàng sinh nghi, tuy là không ngẩng đầu nhìn vẻ mặt Quan Nguyên Hạc lúc này, nhưng nàng vẫn có thể lờ mờ cảm thụ được tâm tình rối loạn của y, nàng không dám mở miệng, chỉ nhẹ nhàng nâng tay phủ lên bàn tay to của y vỗ nhẹ hai cái. Bấy giờ Quan Nguyên Hạc mới phục hồi tinh thần lại, thân thể buông lỏng, cọ má vào đỉnh đầu Tuệ An, tiếp tục nói:

“Khi đó Nhị ca thường xuyên lén mẫu thân dẫn ta tới nơi này chơi đùa, lúc ấy chúng ta tuổi còn nhỏ, chỉ cảm thấy rừng trúc này rộng lớn mênh mông, tuy là chỉ quanh quẩn có vài gốc trúc nhưng có chơi đùa thế nào cũng không đủ. Kỳ thật lúc đó bệnh của Nhị ca đã chuyển biến rất nặng, mỗi ngày có đến mười canh giờ đều nằm trên giường bệnh, ta từng nhiều lần bắt gặp mẫu thân đêm khuya một mình rơi lệ, Nhị ca mang theo ta ra ngoài chơi đùa mẫu thân sao có thể không biết cho được? Mỗi lần như vậy, mẫu thân đều ở xa xa phía sau đi theo chúng ta, còn hết sức không để Nhị ca phát hiện, ta cũng coi như không thấy… Lúc ấy ta không hiểu mẫu thân vì sao cứ luôn đi theo chúng ta lại chẳng chịu lộ mặt, sau khi lớn lên mới biết được, mẫu thân là muốn để cho Nhị ca vui vẻ hơn một chút, không muốn gò bó Nhị ca ở điểm cuối cuộc đời này, làm cho Nhị ca cảm thấy thế nào mới là tự do thực sự…”

Quan Nguyên Hạc nói rất bình tĩnh, thanh âm trầm thấp của y quanh quẩn trong rừng trúc, Tuệ An còn nghe được trong đó có vài phần chua xót. Nàng ngẩng đầu, đặt má mình áp vào cổ Quan Nguyên Hạc, làm cho y cảm nhận được sự tồn tại cùng dựa dẫm của nàng, lúc này mới hỏi:

“Nhị ca là mắc bệnh gì?”

Quan Nguyên Hạc cảm nhận được động tác nhỏ của Tuệ An, trong lòng ấm áp, hai tay càng siết chặt, nói:

“Là một loại bệnh cực kỳ cổ quái, người mắc phải loại bệnh đó rất khó chìm vào giấc ngủ, cho dù có ngủ được cũng sẽ gặp ác mộng, một khắc không thể an bình. Ác mộng càng ngày càng ghê sợ, cho dù có uống bao nhiêu thang thuốc cũng không được yên ổn. Sáu tuổi đúng là lúc trẻ con phát triển, cứ ngày ngày không được an bình như thế, lâu dài về sau thân thể lập tức trở nên thiếu hụt, gầy trơ cả xương, tinh thần sa sút thấy rõ, tiến dần đến bờ vực của cái chết… Hôm nay nghĩ lại, ta đã sớm đã quên mất gương mặt kháu khỉnh của Nhị ca rồi, chỉ nhớ rõ dáng vẻ da bọc xương kia.”

Tuệ An giật mình, thực không nghĩ tới trên đời này lại có thể loại bệnh tật kinh khủng như vậy, tận mắt chứng kiến người thân mỗi ngày đều bị giày vò cạn kiệt sức lực, đến khi chết dần chết mòn, loại cảm giác này nàng không cách nào tưởng tượng cho được.

Tuệ An không nói gì, Quan Nguyên Hạc cũng im lặng, qua hồi lâu, Tuệ An mới khẽ ngẩng đầu nói:

“Ta cũng từng nghe nói qua Vô Tức chủ trì y thuật cao minh, có thể làm người ta khởi tử hồi sinh, ngay cả ông cũng không có biện pháp nào sao?”

“Chủ trì không chẩn ra đó là loại nào bệnh, cho nên chỉ có thể kéo dài bệnh tình. Dựa vào thuật châm cứu tài tình của chủ trì, ban đầu Nhị ca còn ngủ được yên ổn phần nào, thế nhưng càng về sau thuật châm cứu càng trở nên vô dụng. Nhị ca qua đời, mẫu thân mất hai đứa con trai, vô cùng thương tâm, thân thể liền suy sụp, ở trên núi này nhờ Vô Tức chủ trì điều trị gần một năm, bấy giờ ta mới ba tuổi đầu…”

Sau khi Nhị ca Quan Nguyên Hạc ốm chết, không đến một năm mẫu thân Cố thị của chàng cũng qua đời, Tuệ An vẫn cho rằng khi đó Quan Nguyên Hạc tuổi còn nhỏ, ấn tượng đối với bọn họ sẽ không sâu, nay nghe giữa giọng nói của y còn mang theo nồng đậm hoài niệm cùng đau xót, trong lòng nàng cũng vô thức quặn đau theo, lẳng lặng ôm lại Quan Nguyên Hạc, nghe tiếng tim đập đầy hữu lực của y.

Nàng đã chú ý tới, trong ký ức của Quan Nguyên Hạc, không hề nhắc tới Quan Bạch Trạch. Con trai mắc phải chứng bệnh kỳ lạ, thuốc thang hay châm cứu đều không thể chữa trị, thê tử thì khổ sở đau xót cỡ nào, chẳng lẽ người làm cha làm chồng như ông không nên ở bên cạnh họ hay sao? Chẳng trách mối quan hệ giữa Quan Nguyên Hạc và phụ thân mình lại tệ hại đến vậy, đứa bé bốn tuổi đã đủ hiểu chuyện rồi, trẻ con tuổi đó cần yêu thương, cần quan tâm rất nhiều, vậy mà trí nhớ của Quan Nguyên Hạc khi bốn tuổi lại khắc sâu thân ảnh mẫu thân cùng ca ca, điều này biểu lộ trong mắt y, hai người bọn họ giữ vị trí quan trọng nhường nào.

Nghĩ tới bản thân mình trước kia mất mẹ, cơ khổ không nơi nương tựa, bị phụ thân cùng kế mẫu mưu hại đủ đường, đối với sự đau lòng cùng thống khổ của Quan Nguyên Hạc, Tuệ An càng thêm cảm động. So với nàng, Quan Nguyên Hạc mất đi mẫu thân che chở còn sớm hơn nhiều, chàng lại có loại phụ thân vô tâm như Quan Bạch Trạch, thời điểm đó, chàng còn nhỏ như vậy, chẳng biết chàng đã làm gì để tồn tại được đến bây giờ nữa!

Tuệ An nghĩ tới đây, trái tim liền đau đến tột đỉnh, bất giác hỏi:



“Mẫu thân là vì thương tâm quá độ nên mới qua đời sao? Khi đó chắc chàng đau khổ lắm!”

Lời của nàng còn chưa hết, cánh tay Quan Nguyên Hạc bỗng nhiên căng thẳng, Tuệ An chỉ cảm thấy thân thể sau lưng mình thoáng cái cứng rắn như sắt, trong lòng nhảy dựng. Phát giác được tâm tình Quan Nguyên Hạc kịch liệt biến hóa, nàng không dám nói nữa, cũng không cử động, chỉ càng tựa thân thể mình vào ngực y, hy vọng có thể mang tới cho y an ủi cùng sức mạnh.

Cứ như vậy, không biết qua bao lâu, lâu đến nỗi Tuệ An chỉ cảm thấy cánh tay đã bị Quan Nguyên Hạc làm cho tê cứng, y mới chậm rãi buông lỏng nàng ra, vẫn dùng giọng điệu trầm thấp nhẹ nhàng nói:

“Mẫu thân… Bà là bị phụ thân bức tử! Bị ông ta đích thân hại chết!”

Mấy lời sau cuối của Quan Nguyên Hạc thốt ra vô cùng nhẹ nhàng, từng chữ cái phảng phất như rặn ra từ kẽ răng. Lời kia rơi vào trong tai Tuệ An chẳng khác nào tiếng sấm giữa mùa đông lạnh giá, làm cho thân thể nàng không tự chủ cứng đờ cả lên, chỉ có thể theo bản năng vòng tay ôm chặt hông Quan Nguyên Hạc, nhẹ nhàng vuốt ve lồng ngực đang phập phồng kịch liệt vì kích động của y. Nàng vỗ về một hồi lâu, Quan Nguyên Hạc mới dần dần bình tĩnh trở lại, y thở phào nhẹ nhõm, lúc này mới nói:

“Mẫu thân bệnh lâu không khỏi, lại bởi vì hàng năm ở trong chùa, cho nên phụ thân liền để Tiếu di nương lúc bấy giờ đến chùa hầu hạ mẫu thân, nhưng Tiếu di nương đến, lại chính là kẻ khiến mẫu thân không thể đi ra khỏi Tê Hà tự này…”

Tuệ An chỉ cảm thấy trong lời nói của Quan Nguyên Hạc mang theo một ẩn ý lạnh lẽo như băng, liền nắm chặt tay thành quả đấm, mãi sau mới run giọng hỏi:

“Vì sao? Nàng… Tiếu di nương độc hại mẫu thân sao?”

Quan Nguyên Hạc nghe vậy nhưng lại mỉa mai cười một tiếng, nói:

“Đêm đó khí trời rét buốt, hạ xuống một trận tuyết rất lớn, nửa đêm ta ngủ được mơ mơ màng màng lại vì lạnh quá mà tỉnh lại, lò than trong phòng chẳng biết từ lúc nào đã tắt ngúm, ta gọi vài tiếng, cũng không có nha hoàn đáp lời. Lúc ấy thực sự rất lạnh, ta liền khoác tạm áo choàng muốn đến chỗ mẫu thân, chỉ nghĩ mẫu thân bên kia tất nhiên sẽ ấm áp, thế nhưng… Ta đẩy ra cửa phòng của mẫu thân, mới phát hiện gian ngoài cũng không có người trực, trong nội thất lại truyền ra những thanh âm kỳ quái. Ta đi vào, nhìn thấy mẫu thân lõa thể bị một tên tăng nhân không mặc quần áo áp dưới thân, trong miệng bị chặn vải. Nghe được tiếng động, bà hoảng sợ nhìn về phía ta, lúc ấy ta vô cùng sợ hãi, theo bản năng chạy ra ngoài, lớn tiếng gọi người…”

Quan Nguyên Hạc không nói tiếp nữa, giống như là đột nhiên bị lưỡi dao sắc bén cắt ngang, nhất thời trong rừng trúc chỉ còn lại tiếng lá trúc ma sát vang lên sột soạt. Tuệ An lại cảm thấy ngoài thanh âm sột soạt nhỏ bé này, nàng còn có thể nghe được tiếng lòng đầy bi thương của Quan Nguyên Hạc, cùng với trái tim mình vì không ngừng co rút mà khó khăn đập loạn. Trước mắt nàng, không khỏi thoáng hiện lên tình cảnh đêm đó, ở nơi chùa miếu thiêng liêng này, trong bóng đêm, vang lên tiếng gào thê lương của bé trai, kinh động mọi người xung quanh, cũng vô thức trở thành bùa đòi mạng bám lấy người mẫu thân tội nghiệp.

Tiếu di nương kia, tâm địa thật độc ác! Mà Quan Nguyên Hạc mới bốn tuổi sau khi trải qua đêm đó thử hỏi làm sao có thể vui vẻ lớn lên như những đứa trẻ bình thường được đây. Theo năm tháng trôi qua, y càng ngày càng hiểu chuyện, lại nhớ tới đêm đó, y sẽ đau lòng, thống hận, chán ghét chính mình đến nỗi nào, khổ sở áy náy biết bao nhiêu…

Tuệ An nghĩ tới những cảm giác đó, trong lòng trống rỗng, có chút luống cuống, căn bản không biết giờ phút này mình nên phản ứng thế nào, nên nói ra sao, hoặc là làm những hành động gì để an ủi y, cho y dù chỉ một chút ấm áp cùng lực lượng. Nàng vẫn chưa thể tìm về thanh âm của mình, đã nghe Quan Nguyên Hạc thở phào một hơi, tiếp tục nói:

“Hôm đó trời còn chưa sáng phụ thân đã tới, ông và mẫu thân tranh cãi ầm ĩ một trận, tiếng ồn ào lớn đến nỗi nha hoàn bà tử trong chùa đều nghe được, ông hoài nghi mẫu thân chậm chạp không về phủ là do ở trong chùa cấu kết cùng tăng nhân, không có nửa câu an ủi, lại chỉ vung tay vứt cho mẫu thân một tờ hưu thư liền nghênh ngang rời đi. Đêm hôm đó, sau khi mẫu thân dỗ ta ngủ, trở về phòng liền lặng yên không một tiếng động tự vẫn… Sau khi mẫu thân chết, phụ thân mới điều tra kỹ chuyện này, trừng phạt Tiếu di nương. Thế nhưng lại có thể thế nào, chung quy mẫu thân cũng đã ôm hận mà đi, mãi mãi không về được nữa…”

Mẫu thân của Quan Nguyên Hạc – Cố Thư Vân, là đích nữ Cố thị, xảy ra chuyện này chính là bị bỏ cũng không thể nói rõ nguyên nhân, trở lại nhà mẹ đẻ, bà còn có thể sống một cuộc sống áo cơm không lo, cũng không nhất định phải chết. Thế nhưng khi đó, bà lựa chọn tự vẫn, điều này một phần nguyên nhân là không thể thừa nhận nhục nhã, lại bởi vì bị phu quân hoài nghi mà thương tâm, quan trọng hơn còn là vì Quan Nguyên Hạc mà cân nhắc.

Từ việc Cố Thư Vân mang theo con nhỏ một mình lên núi cầu y, liền có thể nhìn ra bà là một nữ tử bền bỉ kiên trì, vạn sẽ không dễ dàng tìm chết, chính là xảy ra loại chuyện đó, thì chí ít bà cũng phải tìm ra hung thủ hãm hại mình, rửa sạch thanh danh, sau mới hài lòng tự vẫn. Thế nhưng bà lại quả quyết lựa chọn cái chết như vậy, chỉ vì bà biết rõ, cho dù có tra rõ hung phạm, Quan phủ cũng không thể chấp nhận bà. Mẹ đẻ của Quan Nguyên Hạc có thể bệnh qua đời, nhưng nhất quyết không thể bị bỏ, có một mẫu thân bị bỏ, đời này Quan Nguyên Hạc cũng sẽ bị người khác khinh thường theo, thiếu đi xuất thân hoàn mỹ, y sẽ bị hủy diệt tất cả tương lai.

Bà chết, để bảo toàn vị trí trưởng tử tại Quan phủ của Quan Nguyên Hạc, bà chết, là dùng tư thế quyết tuyệt làm Quan Bạch Trạch áy náy cả đời, từ đó sinh lòng che chở cho Quan Nguyên Hạc. Cũng bởi vì bà biết rõ Quan phủ rất nhanh sẽ có chủ mẫu mới, Quan Bạch Trạch còn cơ hội có con trai khác, mà Quan Nguyên Hạc nhỏ như vậy, dù bên cạnh có Định Quốc phu nhân săn sóc, nhưng rốt cuộc trong Quan phủ, người cuối cùng có thể đưa ra quyết định vẫn là Quan Bạch Trạch. Bà dùng tính mạng của mình đổi lấy tương lai hai mươi năm tươi sáng sau này, cũng là sự bảo đảm cuối cùng bà có thể lưu lại cho Quan Nguyên Hạc.

Đây là tấm lòng của một người mẫu thân… Chẳng trách Cố Thư Vân mất sớm, mỗi lần Quan Nguyên Hạc nhắc tới mẫu thân lại luôn bao hàm vô số tình cảm cùng hồi ức, chẳng trách y lại hận Quan Bạch Trạch đến thế, chưa bao giờ tôn kính vị phụ thân kia chút nào, chẳng trách y đối với Thôi thị thậm chí là cả Quan phủ đều lãnh đạm vô tình. Cũng chẳng trách y lại không gần nữ sắc, tính tình khắc nghiệt, thì ra sau lưng y còn cất giấu chuyện xưa đau khổ như vậy.

Những chuyện này nàng chỉ nghe kể qua mà đã rợn cả tóc gáy, y còn đích thân trải qua, Tuệ An khó có thể tưởng tượng được Quan Nguyên Hạc đã phải thừa nhận bao nhiêu thống khổ. Khi đó chỉ mới nghe A Trúc cô cô nói mẫu thân cùng cậu bị tính kế, nàng liền đau đớn muốn nổi điên, thế nhưng mang câu chuyện ghê tởm trong Hầu phủ so với những gì Quan Nguyên Hạc đã trải qua lại căn bản không tính cái gì. Hủy trinh tiết của người, thủ đoạn này quá mức âm độc, nhưng trong giới phụ nhân lại lần nào cũng mang tới tác dụng khổng lồ, nguyên nhân không nói, chỉ vì hai chữ ‘trinh tiết’ đã bao hàm hầu như tất cả của nữ tử, hủy diệt nó liền tương đương hủy diệt hết thảy.

Mẫu thân Thẩm Thanh của nàng so với Cố Thư Vân còn may mắn hơn nhiều, mẫu thân là người thừa kế phủ Phượng Dương hầu, dù bị người tính kế, Tôn Hi Tường lại giận đến đâu cũng không dám làm gì bà, nhưng dù là như thế cũng khiến mẫu thân vì vậy mà cuối cùng bị độc hại, Cố Thư Vân lại khác, ngay lúc ấy bà đã bị dồn đến đường cùng. Tiếu di nương kia rốt cuộc phải hận Cố Thư Vân nhường nào, mới có thể bày ra ván cờ ác độc như vậy. Dường như để đáp lại suy nghĩ của Tuệ An, Quan Nguyên Hạc mở miệng lần nữa, nói:

“Mẫu thân mặc dù năm năm sinh được ba con trai, nhưng cũng chỉ là cảnh tượng mặt ngoài, bởi vì sinh con liền không thể hầu hạ, cho nên ba lần sinh con, bà vì phụ thân nâng lên ba phòng tiểu thiếp, Lan di nương cùng Dung di nương đều là lúc mẫu thân có thai được nâng lên, mà Tiếu di nương là mẫu thân biết phụ thân bao dưỡng bên ngoài phủ mới đón vào. Bà tướng mạo đẹp, từng cực kỳ được sủng ái, vào phủ không lâu cũng có thai, chỉ có điều bà cũng sẩy thai, là một nam thai đã thành hình. Tiếu di nương cho rằng lần sẩy thai đó là do mẫu thân ta làm hại, cho nên trong lòng luôn có hận ý. Về sau bởi vì lúc bà sinh Đại tiểu thư Quan Lễ Phương bị hư thân thể không thể mang thai, cho nên liền càng thêm ghi hận mẫu thân, bấy giờ mới thúc đẩy bà ra độc kế hãm hại mẫu thân, những điều này đều là lời sau cuối bà chính miệng thừa nhận với phụ thân.”

Tuệ An nghe vậy thì giật mình, ngước mắt nói:

“Đại tiểu thư Quan Lễ Phương không phải là do Dung di nương sở sinh sao?”

Quan Nguyên Hạc gật đầu, nói:

“Tiếu di nương cùng mẫu thân đều không thể ra khỏi Tê Hà tự. Lúc ấy người hầu kẻ hạ trên núi chưa từng có một người còn sống rời đi, từ đó về sau trong phủ nghiêm cấm nhắc tới Tiếu di nương, bọn hạ nhân cũng chỉ biết mẫu thân là bệnh qua đời, cho nên đều suy đoán Tiếu di nương độc hại mẫu thân. Tiếu di nương trở thành cấm kỵ trong phủ, Quan Lễ Phương suy cho cùng vẫn là cốt nhục của phụ thân, phụ thân làm chủ đặt nàng dưới danh nghĩa Dung di nương không có con. Nay đã cách nhiều năm, người hầu trong phủ đã đổi đi không biết bao nhiêu lần, hơn nữa sau khi Quan Lễ Phương xuất giá chưa từng trở lại, cho nên rất ít người biết nàng không phải do Dung di nương sinh ra.”

Tuệ An nghe vậy chỉ khẽ ừ một tiếng, nói không nên lời, lúc trước trong lòng nàng hận, cũng may còn có Tôn Hi Tường với mẹ con Đỗ Mỹ Kha để mà báo thù rửa hận, còn Quan Nguyên Hạc, trong lòng y có hận, nhưng cho tới bây giờ ngay cả bóng dáng kẻ thù cũng không có, loại cảm giác này hệt như dao cùn cắt thịt, không có lúc nào là không giày vò y cả.

Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.com

truyện bách hợp
truyện sắc
truyện full

Nhận xét của độc giả về truyện Nhi Nữ Hầu Môn

Số ký tự: 0

    Bình luận Facebook